Giữ mía Phục Hòa

Phục Hòa là xã biên giới ở phía đông tỉnh Cao Bằng (trước đây thuộc huyện Quảng Hòa).

Canh tác giữa thung lũng mía rộng hàng nghìn ha ở xã Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Canh tác giữa thung lũng mía rộng hàng nghìn ha ở xã Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.

Mảnh đất này nổi tiếng bởi những dãy núi đá vôi trùng điệp, các thác nước nhiều tầng xanh lục. Nhưng ấn tượng hơn cả là khung cảnh xanh rì một màu mía, uốn lượn theo những con suối, triền đồi, tạo thành thung lũng trồng trọt rộng lớn tới hơn 1.300 ha.

Vào mùa thu hoạch, khắp vùng Phục Hòa rộn ràng tiếng nói cười của các tổ đổi công trên những cánh đồng mía, tạo nên bức tranh nông thôn miền núi đầy sức sống và khí thế lao động. Cây mía đã gắn bó với người dân nơi đây qua nhiều thế hệ, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống và văn hóa bản địa. Nhiều năm gần đây, giá mía tăng giúp thu nhập người dân được cải thiện, chú trọng hơn vào đầu tư, phát triển nông nghiệp cũng như bảo tồn các giá trị làng nghề truyền thống.

Từ những vạt mía đến cánh đồng tiền tỷ

Gia đình ông Nông Văn Sủi, Tổ dân phố 2 (Cốc Khau), xã Phục Hòa, là một trong những hộ đã gắn bó với cây mía từ thời ông bà, bố mẹ. Ông Sủi kể, trước đây giống mía gia đình ông trồng năng suất thấp. Hầu hết mía được dùng để làm đường phên truyền thống, thu nhập không cao, kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Đó không chỉ là câu chuyện riêng của gia đình ông Sủi mà còn là nỗi niềm chung của nhiều hộ dân ở Phục Hòa lúc bấy giờ. Mía vốn là cây trồng chủ lực, mang đậm bản sắc địa phương, lại chưa thể đem lại giá trị kinh tế tương xứng.

Bước ngoặt lớn đến với Phục Hòa khi nhà máy mía đường đặt chân về đây, tạo ra một cơ hội kinh tế thật sự so làm nông truyền thống. Gia đình ông Sủi được nhà máy hỗ trợ tạo điều kiện mua giống cây mới với giá rẻ và cho vay phân bón. Nhờ đó, người dân địa phương cũng như gia đình ông trồng được nhiều mía hơn, năng suất tăng. Đặc biệt, đầu ra tiêu thụ sản phẩm được bảo đảm khi nhà máy bao tiêu hết sản phẩm cho người dân. “Làm ra đến đâu thì bán hết đến đó, việc tái sản xuất và nâng cao diện tích trồng mía cũng thuận lợi”, ông Sủi chia sẻ. Sau nhiều nỗ lực, hiện nay gia đình ông đã có gần 1 ha trồng mía, đạt năng suất ấn tượng 92 tấn/ha.

Còn toàn xã Phục Hòa đã hình thành hơn 1.300 ha mía, năng suất trung bình đạt 72 tấn/ha, cho doanh thu hàng tỷ đồng. Đồng chí Đàm Đình Đạo, Chủ tịch UBND xã cho biết: “Định hướng phát triển vùng mía nguyên liệu của Phục Hòa không chỉ dừng ở việc mở rộng diện tích, tăng sản lượng mà còn hướng tới thay đổi bền vững thu nhập cho người dân thông qua áp dụng khoa học-kỹ thuật tiên tiến, nâng cao năng suất và chất lượng mía. Chúng tôi đang nghiên cứu các giải pháp đa dạng hóa sản phẩm từ mía, tạo ra chuỗi giá trị khép kín, từ đó giúp người dân có thêm nhiều kênh tiêu thụ, ổn định kinh tế lâu dài. Sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, doanh nghiệp và người dân là chìa khóa để Phục Hòa phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai”.

Bên cạnh sự hỗ trợ từ chính quyền, doanh nghiệp, điều đáng nói là tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của cộng đồng bản địa. Người dân hiện vẫn duy trì truyền thống thành lập các tổ đổi công để giúp nhau trong sản xuất. Các tổ này thành lập từ thời kỳ những hợp tác xã trồng trọt mới ra đời. Người dân hỗ trợ nhau các công đoạn nặng nhọc như đốn chặt, vận chuyển mía. Dựa trên số công bỏ ra, người ta sẽ đổi công lại cho nhau, tạo nên một sự hỗ trợ qua lại bền chặt. Tinh thần hàng xóm láng giềng thể hiện không chỉ trong lao động sản xuất mà còn cả trong những lúc khó khăn như khi có thành viên ốm đau, bệnh tật. Thành công của các tổ đến nay góp phần không nhỏ vào sự phát triển vùng nguyên liệu mía, cũng như tạo nên sợi dây gắn kết chặt chẽ trong cộng đồng. Ông Nông Văn Thuyết, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Mía đường Cao Bằng cho biết: “Người dân Phục Hòa rất đoàn kết. Chúng tôi cũng trân trọng truyền thống đó bằng cách tham gia các hoạt động hỗ trợ người dân như cung cấp vật liệu sửa chữa đường giao thông nông thôn, thăm hỏi những hộ trong tổ trồng mía khi gặp khó khăn...”.

52.jpg
Sản xuất đường tại nhà máy Công ty cổ phần Mía đường Cao Bằng ở xã Phục Hòa. Ảnh: HOÀI AN

Phát huy tinh hoa làng nghề

Nỗ lực phát triển bền vững nghề trồng mía, xã Phục Hòa vẫn nhận thức rõ giá trị truyền thống mà cây mía đem lại từ bao đời trước. Đó là bảo tồn, phát huy làng nghề làm đường phên thủ công truyền thống, góp phần giữ gìn bản sắc địa phương cũng như nâng cao giá trị của cây mía địa phương. Làng nghề lâu đời và cũng nổi tiếng nhất ở Phục Hòa ở xóm Bó Tờ, với hơn 100 năm tuổi. Bà Nông Thị Hảo (61 tuổi) chia sẻ, trồng mía để làm đường phên bằng phương pháp thủ công có từ thời bà chưa sinh ra và “hồi bé, tôi đã được xem ông bà, bố, mẹ ép mía, nấu đường”. Giống mía dùng làm đường phên là giống truyền thống từ thời cha ông để lại. Khi chặt mía để ép thì lại lấy ngọn mang giâm xuống đất, ăn Tết Nguyên đán xong lại mang trồng. Cứ như vậy từ năm này sang năm khác, vẫn giống mía ấy tạo ra một loại đường đặc trưng của xóm núi - đường phên.

Ban đầu, chỉ một số hộ trong xóm làm đường phên để tự phục vụ gia đình. Nhưng sau quá trình bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc từ làng nghề, đến nay, số hộ làm đường phên phục vụ kinh doanh trong xóm Bó Tờ đã lên tới 85/150 hộ. Với nguồn nguyên liệu dồi dào, nhân công dày dạn kinh nghiệm, làm đường phên từ việc cho giá trị kinh tế thấp thì nay đã là một trong những nghề mang lại thu nhập cao, giải quyết nhiều việc làm cho lao động nông thôn. Sản phẩm đường phên Bó Tờ đã được công nhận OCOP, khẳng định được uy tín trên thị trường trong và ngoài tỉnh. Mỗi năm, làng nghề sản xuất trung bình 2.550 tấn đường phên, cho nguồn thu chiếm 70% tổng thu nhập với hàng trăm triệu đồng/năm/hộ.

Tương tự, tại xóm Nà Lếch, cũng thuộc xã Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, nghề làm đường phên thủ công cũng là một phần không thể tách rời của đời sống. Năm 2024, Nà Lếch trở thành làng nghề truyền thống thứ hai của Phục Hòa với sản phẩm đường làm từ cây mía bản địa. Người dân tại Nà Lếch trồng chủ yếu hai loại: Mía bán cho Nhà máy đường và loại mía chuyên để ép lấy nước nấu thành đường phên. Đáng chú ý, với việc áp dụng công nghệ vào sản xuất, giống mía ROC 10 được đánh giá cao vì thân cứng, dai, dễ ép, ngọt hơn và cho tỷ lệ đường cao khi nấu, lại để được lâu. Hiện nay, trong xóm có khoảng 15 ha trồng mía làm đường, với 18 hộ duy trì sản xuất đều đặn. Với cách làm thủ công, cứ 6-7 tạ mía thì được 60-70 kg đường phên thành phẩm, bán trung bình 30-35 nghìn đồng/kg.

Quy trình sản xuất đường phên ở cả hai làng nghề đều là sự kết hợp giữa truyền thống và đổi mới. Trước kia, khâu ép nước mía là bằng sức trâu kéo nhưng nay đã thay bằng máy ép mía chạy bằng điện. Các công đoạn còn lại vẫn hoàn toàn thủ công. Nước mía được cho vào chảo gang lớn để đun trên bếp khoảng 4-5 giờ. Lửa nấu mật phải là lửa ngọn từ bã mía hoặc cỏ gianh, không dùng than củi. Quan trọng nhất là phải biết “lấy” đường vừa tầm, nếu non sẽ chảy nước, nếu già sẽ đắng. Thành phẩm đường phên được bọc gói trong lá vông khô hoặc lá chít, sau đó cuốn nylon bọc ngoài, để nơi thoáng mát có thể bảo quản được một năm. Mỗi miếng đường chứa đựng tâm huyết, tình cảm, niềm đam mê của nhiều thế hệ dày công gìn giữ, đó là lý do mỗi người dân nơi đây là một nghệ nhân được truyền từ đời này sang đời khác, từ trẻ nhỏ đến người già đều biết làm đường phên.

Nguồn nguyên liệu mía tự nhiên và bã mía dư thừa được sử dụng làm nhiên liệu đốt trong sinh hoạt hằng ngày, hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường sống. Theo Chủ tịch UBND xã Đàm Đình Đạo, thời gian tới, xã định hướng phát triển làng nghề gắn với du lịch, xây dựng môi trường du lịch văn hóa làng nghề, giáo dục ý thức giao tiếp với khách du lịch, và phối hợp đào tạo kỹ năng du lịch cho cán bộ và nhân dân địa phương. Mục tiêu là nâng cao giá trị sản phẩm, gắn hoạt động sản xuất của làng nghề với các hoạt động du lịch dịch vụ, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.

Đồng chí Vũ Anh Tuấn, Bí thư Đảng ủy xã Phục Hòa: “Ngành mía không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho người dân mà còn là cầu nối cho sự đoàn kết cộng đồng. Chúng tôi luôn khuyến khích bà con giúp đỡ nhau trong sản xuất, chuyển giao kinh nghiệm... Đảng ủy và chính quyền xã sẽ luôn sát cánh cùng người dân và doanh nghiệp, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để cây mía Phục Hòa ngày càng phát triển”.

Có thể bạn quan tâm

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.

Già Hoàng Văn Cầu chế tác mặt nạ Ka Đong.

Huyền bí mặt nạ Ka Đong

Giữa bản làng dân tộc Sán Chỉ, dưới mái nhà sàn luôn lưu giữ những chiếc mặt nạ mang ý nghĩa tâm linh với tên Ka Đong. Những chiếc mặt nạ gỗ, nhiều mầu sắc, thậm chí khá dữ tợn lại ẩn sâu giá trị tốt đẹp về bản sắc văn hóa và ước mơ, mong mỏi về cuộc sống yên bình, no ấm.