Giảm gánh nặng đầu tư nhờ ứng dụng công nghệ

Theo các chuyên gia, mục tiêu đến năm 2030 có 80% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch theo Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, là thách thức rất lớn.
Dự án ứng dụng công nghệ RO cung cấp nước uống trực tiếp cho hơn 3.200 học sinh, cán bộ, giáo viên ở Hà Giang. Ảnh: Trọng Toàn
Dự án ứng dụng công nghệ RO cung cấp nước uống trực tiếp cho hơn 3.200 học sinh, cán bộ, giáo viên ở Hà Giang. Ảnh: Trọng Toàn

Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cho công tác cấp nước sinh hoạt tại khu vực này lại vẫn đang chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Bởi vậy, những giải pháp lọc nước tại chỗ ứng dụng các công nghệ mới được xem như một hướng mở bền vững, giúp người dân được sử dụng nước sạch với chi phí hợp lý.

Những mô hình mẫu

Do khai thác quá mức, nguồn nước ngầm vốn chiếm tới 40% lượng nước sinh hoạt đô thị đang cạn kiệt từng ngày. Trong khi đó, nguồn nước mặt từ 11 lưu vực sông lớn lại phải gánh chịu lượng lớn nước thải công nghiệp chưa qua xử lý. Đó chính là nguyên nhân khiến chất lượng nước suy giảm đến mức báo động.

Sau thời gian phát triển nóng, hệ thống cấp nước sạch tại Việt Nam tồn tại chênh lệch rõ rệt giữa đô thị và nông thôn. Trong khi người dân sống tại các thành phố lớn được bảo đảm nhu cầu nước sạch, thì ở những vùng ven đô, nhiều khu công nghiệp và khu tái định cư vẫn chưa được tiếp cận đầy đủ nguồn nước sạch. Ở nông thôn, phần lớn hệ thống cấp nước chưa được đầu tư đồng bộ, khiến nhiều gia đình phải “sống chung” với nước giếng khoan, nước mưa, hoặc thậm chí là nước sông. Những nguồn nước ấy tiềm ẩn vô vàn nguy cơ ô nhiễm vi khuẩn, hóa chất và kim loại nặng, là nguyên nhân gây ra hàng loạt căn bệnh truyền nhiễm và mãn tính, đe dọa sức khỏe cộng đồng.

Là tỉnh miền núi cực bắc Tổ quốc, khoảng 98% nguồn cấp nước sinh hoạt ở Hà Giang là nguồn nước mưa, nước mặt từ khe, núi, ao hồ theo các loại hình cấp nước tự chảy, hồ treo, lu, bể, máng... Đây cũng là địa phương có tỷ lệ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh thấp (58,6%), tỷ lệ sử dụng nước sạch theo Quy chuẩn Việt Nam chỉ đạt 12%.

Từ năm 2021, Dự án “Tăng cường tiếp cận nước sạch và vệ sinh môi trường cho trường học và người dân trên địa bàn tỉnh Hà Giang” đã được triển khai thí điểm tại năm trường học. Quá trình khai thác và vận hành tới giờ cho thấy: Năm mô hình xử lý, cấp nước sạch và nước uống trực tiếp ứng dụng công nghệ thẩm thấu ngược (RO) được lắp đặt với chi phí không cao, vật tư thay thế thấp. Trong đó, vốn từ nhà tài trợ là 580,29 triệu đồng (chiếm 82,2%), vốn đối ứng của địa phương là 125,92 triệu đồng (chiếm 17,8%). Công tác vận hành, bảo trì đơn giản, điện năng tiêu thụ thấp, phù hợp mô hình tự quản của mỗi đơn vị trường học, cũng như cụm dân cư.

Bên cạnh công nghệ RO, mô hình lọc sinh học Bio-sand được ứng dụng tại đây cũng giúp hơn 15.000 hộ dân tiếp cận nước sạch với chi phí vô cùng hợp lý, chỉ 500.000 đồng/bể, nhờ sử dụng vật liệu địa phương như cát, sỏi và than hoạt tính. Hai công nghệ trên được xem như những mô hình kiểu mẫu để các địa phương khác học tập và nhân rộng, góp phần nâng cao tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch, giúp tăng cường sức khỏe và cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.

Chủ động với công nghệ xử lý nước tại chỗ

Theo các chuyên gia, công nghệ RO, với khả năng lọc bỏ hoàn toàn tạp chất, là “giải pháp vàng” cho những khu vực có nguồn nước ô nhiễm nặng, đặc biệt là nước giếng khoan. Tại các đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nơi nước máy có thể còn dư lượng clo, RO giúp bảo đảm chất lượng nguồn nước phục vụ nhu cầu ăn uống hằng ngày.

Trong khi đó, công nghệ UF (Ultra Filtration, là công nghệ phân tách các chất gây ô nhiễm ra khỏi nguồn nước nhờ sử dụng màng lọc UF) với ưu điểm giữ lại khoáng chất tự nhiên, lại đặc biệt phù hợp với những vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của mưa lũ, nơi nước bị đục và nhiễm nhiều chất hữu cơ. Đây là giải pháp lý tưởng với miền trung do công nghệ này không cần năng lượng, phù hợp với tình trạng mất điện mùa lũ. Ngoài ra, các hệ thống lọc nano công suất nhỏ cũng góp phần mang nước uống trực tiếp đến 200 trường học vùng cao, giúp giảm đến 45% số ca tiêu chảy ở trẻ em tại Quảng Nam.

Ông Đoàn Minh Đức, Trưởng đại diện KSO - đơn vị chuyên kết nối các công nghệ mới của Hàn Quốc với doanh nghiệp Việt Nam, nhận định: Nhiều nhà sản xuất và cung cấp giải pháp xử lý nước sinh hoạt đã chủ động nghiên cứu, tích hợp công nghệ tiên tiến vào sản phẩm. Điều này cho thấy sự linh hoạt, tư duy nhạy bén trong quá trình phát triển, nhằm đáp ứng sát nhu cầu thực tế của người dân. Bên cạnh các công nghệ lọc nước sẵn có, việc tiếp thu và ứng dụng công nghệ hiện đại từ các quốc gia phát triển không chỉ giúp doanh nghiệp nhanh chóng mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh, mà còn tạo nền tảng cho quá trình nội địa hóa và phát triển công nghệ trong tương lai.

Một số công nghệ lọc nước hiện đại từ Hàn Quốc đã được nghiên cứu và thử nghiệm tại Việt Nam nhằm đáp ứng đa dạng nhu cầu sử dụng nước sạch. Trong đó, công nghệ lọc RO đã được tối ưu hóa để giảm tỷ lệ nước thải, giúp tiết kiệm tài nguyên và nâng cao hiệu suất lọc.

Ngoài ra, các hệ thống lọc tổng cũng được thiết kế theo nhu cầu riêng của từng nhóm khách hàng, như chung cư, khu vực chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, xâm nhập mặn. Riêng tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, công nghệ điện phân nước mặn đang mở ra giải pháp đột phá trong việc xử lý nguồn nước.

Không dừng lại ở đó, vật liệu lọc cao cấp cũng góp phần nâng cao chất lượng nước, loại bỏ tối đa tạp chất và vi khuẩn, bảo đảm nguồn nước sạch đạt tiêu chuẩn cao nhất. Những công nghệ này hứa hẹn sẽ mang đến giải pháp bền vững, góp phần cải thiện chất lượng nước sinh hoạt tại Việt Nam.

Rõ ràng, công nghệ xử lý nước tại chỗ đang ngày càng được ưa chuộng bởi những lợi ích thiết thực mà nó mang lại. Thay vì phụ thuộc vào hệ thống cấp nước tập trung, vốn còn nhiều hạn chế, công nghệ xử lý nước tại chỗ cho phép mỗi gia đình, mỗi cộng đồng chủ động tạo ra nguồn nước sạch cho riêng mình.

Đây không chỉ là hướng đi giúp giảm tải áp lực lên hệ thống hạ tầng quốc gia mà còn tiết kiệm chi phí, góp phần cải thiện sức khỏe toàn diện, nâng cao chất lượng sống cho người dân, nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.