Dáng bay Việt Nam (kỳ 4)

Kỳ 4: Cái màu đỏ ấy theo đi

Từ phải qua: Kíp chiến đấu Tiểu đoàn 52 tham gia bắn rơi 32 máy bay Mỹ gồm sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Thọ, trắc thủ cự ly Hoàng Văn Nam, trắc thủ góc tà Vương Thái Thanh, trắc thủ phương vị Trần Hay. Ảnh: NVCC
Từ phải qua: Kíp chiến đấu Tiểu đoàn 52 tham gia bắn rơi 32 máy bay Mỹ gồm sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Thọ, trắc thủ cự ly Hoàng Văn Nam, trắc thủ góc tà Vương Thái Thanh, trắc thủ phương vị Trần Hay. Ảnh: NVCC

60 năm từ ngày quả tên lửa SAM hạ gục một chiếc máy bay Mỹ.

60 năm, từ lúc những người lính đứng sau quan sát các chuyên gia Liên Xô, tới lúc Thần sấm, Con ma, những pháo đài bay tưởng chừng bất khả xâm phạm, lần lượt mất tín hiệu trên màn hình quan sát.

Từ một lực lượng mà nghe tên, người Mỹ còn cười chế nhạo, tới lực lượng mà các báo cáo của CIA đều dành một sự nể trọng.

Đó là chặng đường dài của những khoảnh khắc vút bay giữa bão tố và lửa khói.

Những trái tim lửa trên trận địa

Bên cạnh những quyết sách hợp lý, táo bạo từ Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng tới quân chủng, sự giúp đỡ nhiệt tình của những người bạn Liên Xô trước kia, chính những người lính đã cùng nhau góp sức tạo nên kỳ tích lửa trên bầu trời những năm tháng chống Mỹ.

Ngày 6/11/1967, Trung tướng M.I. Vorobyov, Cục trưởng Cục 1 Vũ khí Tên lửa Phòng không thuộc Tổng Cục 4 Bộ Quốc phòng Liên Xô, đã đến Việt Nam. Trung tướng Liên Xô nhận định: “Các sĩ quan và hạ sĩ quan Việt Nam rất chăm chỉ, họ thành thạo như những cỗ máy, trong việc thao tác, họ có thể, bằng trí nhớ, kể ra và chỉ ra bất kỳ điều mục nào, thuộc hết các thông số của mọi tín hiệu” (1).

Ngay cả người Mỹ cũng có sự ngạc nhiên trước tinh thần linh hoạt của người Việt trong cuộc chiến, nhất là khả năng “tận dụng các khoảng ngừng ném bom để tái xây dựng sức mạnh quân sự và cải thiện hệ thống phòng không hợp nhất của mình” (2).

Năm 1966, các báo cáo phía Mỹ cho thấy, phi đội “Chồn hoang” vẫn “không đủ nhanh để bắt kịp tốc độ mở rộng trận địa SAM của bắc Việt”. Đến tháng 8/1966, có hơn 100 trận địa SAM hoạt động, không chỉ quanh Hà Nội mà còn lan xuống tận Vinh (Nghệ An) (3).

Tới tháng 12/1967, máy bay trinh sát tầm cao trong nhiệm vụ Black Shield đã chụp ảnh 221 trong số 226 địa điểm SA-2 có thể sử dụng được của bắc Việt Nam, bao gồm sáu địa điểm mới (4).

Giữa năm 1967, tỷ lệ máy bay Mỹ bị bắn rơi vào khoảng 2% tổng các lượt bay, cao hơn nhiều so tỷ lệ tổn thất 1% trong Thế chiến II. Báo cáo của CIA khẳng định tên lửa SAM đã bắn rơi tới gần 400 máy bay Mỹ trong khoảng từ năm 1965 đến giữa năm 1967 (5).

Để tránh tên lửa của ta, các phi công Mỹ buộc phải hạ thấp độ cao. Lúc đó, họ lại trở thành mồi ngon của hệ thống pháo phòng không và súng máy. B52 không thể hoạt động tự do như năm 1965 vì bị phòng không và MiG đánh trả mạnh mẽ (6).

Trước khi bước vào chiến dịch phòng không tháng 12/1972, quân dân Hà Nội đã xây dựng trên 30 trận địa cho tên lửa, trên 100 trận địa cho cao xạ các loại, và nhiều vị trí triển khai chiến đấu khác không có địa danh trên bản đồ.

Dư âm của tháng 12/1972 sau này ám ảnh tới mức, tướng George J. Eade, Tổng Tư lệnh châu Âu của Mỹ từ năm 1973 đến năm 1975, trong bài phỏng vấn trên Tạp chí Không lực Hoa Kỳ tháng 6/1973 đã thừa nhận: “Việc cho rằng bắc Việt là một quốc gia hạng hai về năng lực phòng không, theo chúng tôi, là hoàn toàn vô căn cứ. Chúng tôi cho rằng bắc Việt đã phát triển lực lượng phòng không có kinh nghiệm thực chiến cao nhất thế giới. Rõ ràng, họ có nhiều kinh nghiệm trong việc khai hỏa tên lửa SAM vào máy bay hơn bất kỳ ai”.

Vào tháng 5/1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho quân chủng Phòng không-Không quân phải tính toán cho ông ba con số. Đó là tỷ lệ B52 bị bắn rơi bao nhiêu thì Mỹ chịu đựng được và tiếp tục cuộc ném bom, tàn phá tan hoang Hà Nội; Tỷ lệ B52 bị bắn rơi bao nhiêu thì Nhà Trắng rung chuyển; Tỷ lệ B52 bị bắn rơi bao nhiêu thì Mỹ phải bỏ cuộc. Cơ quan quân chủng đã đưa ra ba đáp án: N1=1 đến 2%; N2=6 đến 7%; N3=10% trở lên.

Khi Tư lệnh Lê Văn Tri mang lên báo cáo, Đại tướng hỏi: “Vậy quân chủng nhận con số nào?”. Ông Lê Văn Tri thưa: “Báo cáo anh, bằng mọi giá chúng tôi phải loại trừ N1, quyết tâm phấn đấu đạt N2, và vươn tới N3” (7).

Trong Hội nghị tập huấn cuối tháng 10/1972 tại Sư đoàn 361, Tư lệnh Lê Văn Tri giao nhiệm vụ cho bộ đội tên lửa ít nhất phải bắn rơi tại chỗ một chiếc ở Hà Nội. “Đó là kế hoạch tác chiến thực hiện bằng được”, AHLLVTND Nguyễn Đình Kiên trầm ngâm.

Và thực tế đã chứng minh, kết quả bắn rơi B52 đã vượt xa các chỉ tiêu đề ra.

Người Mỹ chưa bao giờ thừa nhận các con số đầy đủ đó. Nhưng họ không thể phủ quyết một sự thật, họ đã vấp phải sự kháng cự chưa từng có. Trong hồi ký của mình, Tổng thống Nixon, đã phải lo sợ vì “mức độ tổn thất B52 quá nặng nề” (8).

Màu đỏ trên chớp lửa

Những chiến thắng trên bầu trời đã phải đánh đổi bằng tất cả mồ hôi, máu và nước mắt của những người lính. AHLLVTND Hoàng Văn Nam, nguyên sĩ quan điều khiển tên lửa Tiểu đoàn 52, Trung đoàn 267 nói rằng, một trong những trận ám ảnh nhất của ông là vào ngày 7/7/1967 tại trận địa Minh Kha, Hải Phòng. Đơn vị của ông vừa đồng bộ đạn thì “nó bắn 32 rocket, ba người hy sinh”. Đơn vị phải chuyển đến Đồng Gia (huyện Kim Thành, Hải Dương cũ) bố trí trận địa mới. Vào ngày 18/9/1967, tiểu đoàn của ông Nam đã bắn rơi một máy bay A4 của địch. Chiến công đó, với ông Nam còn là lời nhắn gửi tới những người đồng đội đã mãi mãi gửi mình nơi tuyến lửa ngày 7/7: “Mình vẫn tiếp tục chiến đấu chứ, không thể dao động được”.

Trong Chiến dịch Phòng không tháng 12/1972, bộ đội tên lửa ở trong tình trạng vô cùng khan hiếm đạn. Những quả đạn trên bệ phóng chỉ dành để đánh những chiếc B52 ban đêm.

Ba ngày bắn hạ ba chiếc B52, trận địa Chèm của Tiểu đoàn 77 trở thành cái gai nhọn trong mắt đối phương. Ngày 21/12, địch dùng F4 tấn công trận địa, trắc thủ Nghiêm Xuân Danh hy sinh. Sáng 28/12, máy bay F4 lại tiếp tục tấn công Chèm.

Một tiếng sau, hai tốp tám chiếc F4 bay thẳng hướng trận địa Đại Đồng của Tiểu đoàn 57. “Nhìn thấy kẻ thù đang trực tiếp tấn công trận địa nhưng không được đánh”, ông Nguyễn Đình Kiên kể lại. Ông Nguyễn Văn Phiệt còn nhớ, khi máy bay địch rút, lúc mở cửa, bốn chung quanh trận địa của Tiểu đoàn 57 bị bom cày xới. “Quân mất nết ấy”, vị trung tướng nghẹn lại. Một trắc thủ góc tà trên xe điều khiển bị thương. Một đồng chí pháo thủ ngoài trận địa đã hy sinh.

Sau mỗi trận thắng, khi những người quan sát hò reo mừng rỡ, thì những người lính tên lửa vẫn chưa được rời vị trí chiến đấu. Ông Hoàng Văn Nam chia sẻ, sau khi bắn rơi B52 chia lửa cho Hà Nội vào đêm 18/12/1972 tại trận địa Nghĩa Đàn (Nghệ An), kíp chiến đấu “không có thời gian hò reo cái gì”. Họ phải ngay lập tức quay anten, hạ cao thế, bởi chỉ cần chậm một giây là có thể tạo thời gian cho Shrike tấn công.

Phía Hà Nội, ông Nguyễn Đình Kiên cũng kể rằng, cả trận chỉ nhìn tín hiệu máy bay qua màn hình, tới khi mở cửa đi ra ngoài, thấy phóng viên ảnh Văn Bang, phóng viên Báo Nhân Dân, ngoài trận địa lao lên hò hét: “Cháy rồi”, ông mới chắc chắn vào chiến công của mình.

AHLLVTND Nguyễn Đình Kiên bảo ngày ông nhập ngũ, chỉ nghĩ đánh giặc 1-2 năm rồi trở về học tiếp. Nào ngờ, ông đi một mạch. Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ trên không với thành tích hạ gục 4 chiếc B52, ông Kiên mới được trở về ăn cái Tết đầu tiên trên quê nhà Vinh sau sáu năm quân ngũ.

Tiểu đoàn 57 khi bắn rơi chiếc B52 đầu tiên, được Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Trần Duy Hưng thưởng cho một con bò. Nhưng những ngày trực chiến liên miên kéo họ đi. Mãi tới sau Tết năm 1973, những người lính thét ra lửa giữa bầu trời, mới thật sự ngồi lại với nhau có một bữa mổ bò khao quân đúng nghĩa.

Sau những ngày chiến đấu căng thẳng, cảm giác hòa bình đến thật sảng khoái.

AHLLVTND, Đại tá Đinh Thế Văn nói vẫn nhớ ngày gặp ông Lê Đức Thọ tại trận địa Chèm. Vị cố vấn mới trở về từ Hội nghị Paris đã đến gặp những người lính phòng không, từng nói: “Cảm ơn các đồng chí bộ đội tên lửa phòng không. Cảm ơn quân và dân Hà Nội, chính các đồng chí đã ký thắng lợi cho Việt Nam ở Hội nghị Paris”.

Nhiều năm sau khi rời quân ngũ, ông Nguyễn Đình Kiên mới bảo rằng: “Càng ngày càng thấy được cái ý nghĩa to lớn của chiến thắng B52. Mình tự hào vì cả thế giới bấy giờ chỉ có Việt Nam đã bắn rơi B52 thôi”. Để truyền lửa cho thế hệ mai sau, ông Đinh Thế Văn, người con của làng rối Đào Thục (Hà Nội), đã viết một kịch bản múa rối nước kể về 12 ngày đêm của trận “Điện Biên Phủ trên không” bởi ông tin rằng, “chỉ có văn hóa mới truyền cảm hứng cho quần chúng dễ hiểu nhất, dễ nghe nhất mà lại vui nhất”.

“Cần để cho thế hệ sau biết, Việt Nam mình đã làm được kỳ tích như thế”, ông Văn cười.

*

Thay lời kết:

Trong loạt bài này, chúng tôi không thể kể lại đầy đủ về những chiến công, từng trận đánh của những AHLLVTND. Chúng tôi chỉ ghi lại một vài lát cắt trong câu chuyện của những người lính tuyến đầu. Đó không phải là tấm huy chương của riêng một ai. Đó là sự đồng lòng của một tập thể kiên cường và bền bỉ.

Và đó là một màu đỏ rực rỡ của những chớp lửa trên bầu trời đất nước.

(1) Đảng bộ Quân chủng Phòng không - Không quân lãnh đạo chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1965 - 1968 và năm 1972, LATS Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Trung Thông, 2023.

(2), (6) “LINEBACKER II, THE DECEMBER 1972 VIETNAM WAR AIR CAMPAIGN” của Ltc. Dennis R. Littrell, 1998.

(3) Take It Down! The Wild Weasels in Vietnam Tạp chí Không lực, John T. Correll, 2010.

(4) BLACK SHIELD - Reconnaissance Missions 16 August-31 December 1967, Giải mật 2016.

(5) VIETNAM 1967: A Synthesis of “The Vietnam Situation: An Analysis and Estimate” - 5/1967, Giải mật 2007.

(7) Giới thiệu về trận Điện Biên Phủ trên không (Tài liệu tổng hợp của Trung tá Lưu Trọng Lân, Phó Trưởng phòng Tác huấn, Bộ Tham mưu Quân chủng PK-KQ, 1999).

(8) RN: The Memoirs of Richard Nixon - Hồi ký, 1978.

Có thể bạn quan tâm

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.

Già Hoàng Văn Cầu chế tác mặt nạ Ka Đong.

Huyền bí mặt nạ Ka Đong

Giữa bản làng dân tộc Sán Chỉ, dưới mái nhà sàn luôn lưu giữ những chiếc mặt nạ mang ý nghĩa tâm linh với tên Ka Đong. Những chiếc mặt nạ gỗ, nhiều mầu sắc, thậm chí khá dữ tợn lại ẩn sâu giá trị tốt đẹp về bản sắc văn hóa và ước mơ, mong mỏi về cuộc sống yên bình, no ấm.