Dẫn vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Để khắc phục các hạn chế về cung ứng và tiếp cận dịch vụ tài chính đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều quốc gia đã xác định ứng dụng công nghệ tài chính là giải pháp hiệu quả tạo các nền tảng kết nối, xây dựng một hệ sinh thái toàn diện đáp ứng nhu cầu tài chính của tất cả các bên liên quan.
Dẫn vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa

Trong đó, có hai mô hình hiệu quả đang được phát triển song song, là đại lý ngân hàng và tài chính công nghệ (Fintech).

Bài toán khó với nhiều quốc gia

Báo cáo đánh giá thực trạng các kênh cung ứng dịch vụ tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại chín quốc gia bao gồm: Bangladesh, Botswana, Campuchia, Ghana, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Singapore và Việt Nam, do IDS thực hiện dựa trên dữ liệu mới nhất (năm 2023) và dữ liệu trong khoảng thời gian 10 năm trước (2013-2016) của quốc gia đó.

Trên bình diện chung của chín quốc gia được so sánh, báo cáo ghi nhận xu hướng tăng trong nhận định của doanh nghiệp nhỏ và vừa về việc tài chính là rào cản lớn nhất cản trở hoạt động kinh doanh trong 10 năm trở lại đây.

Cụ thể, tỷ lệ này tại Bangladesh tăng từ 19,22% lên 22,2%; tại Ấn Độ tăng từ 10,6% lên 16,1% và tại Việt Nam tăng từ 16% lên 18,5%. Ghana và Botswana là hai quốc gia cần phải sớm có các giải pháp mạnh trong việc gỡ bỏ các rào cản tài chính cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khi có tương ứng hơn 40% và 26% khối doanh nghiệp này cho rằng rào cản tài chính là lớn nhất.

Singapore và Campuchia là hai cái tên sáng giá nhất. Cụ thể, chỉ có 2% số doanh nghiệp ở Singapore và dưới 1% số doanh nghiệp ở Campuchia nhận định rào cản tài chính gây trở ngại lớn nhất cho hoạt động của họ. Đặc biệt, ở Campuchia, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa dường như đã phát huy rất tốt khi tỷ lệ các doanh nghiệp nhận định rào cản lớn nhất là tài chính giảm từ 8,1% (năm 2016) xuống 0,3% (năm 2023). Campuchia cũng là quốc gia có sự tăng trưởng mạnh mẽ ở tỷ lệ sở hữu tài khoản của đối tượng này, khi con số này vào năm 2016 chỉ là 32% nhưng tới năm 2023 đã chạm mốc hơn 95%.

Sau 10 năm, nhìn chung khả năng tiếp cận tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được cải thiện rõ rệt, trừ Ấn Độ, Indonesia, Philippines và Việt Nam, với tỷ lệ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận tài chính dao động trong khoảng từ 10%-15%. Đáng lưu ý, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ sở hữu tài khoản thấp nhất trong mẫu nghiên cứu 10 năm, chỉ khoảng 50%; tương đối thấp khi so tỷ lệ sở hữu tài khoản của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các quốc gia được so sánh trong nghiên cứu là 80%-90%. Điều này cho thấy, chưa có nhiều sự chuyển biến tích cực trong việc gỡ bỏ các rào cản tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trong thời gian qua.

Đây có thể là hệ quả của thực trạng ưa thích sử dụng tiền mặt của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam; các quy định về sở hữu tài khoản thanh toán; hoặc sự thiếu hụt các dịch vụ mang lại giá trị gia tăng để khuyến khích khối doanh nghiệp này sở hữu tài khoản.

Và lời giải từ ứng dụng công nghệ

Kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới (WB) đối với 124 cơ quan quản lý tài chính, ngân hàng trung ương đại diện của 141 nền kinh tế thế giới cho thấy, đã có 105/124 quốc gia (85%) cho phép thực hiện hoạt động đại lý ngân hàng. Trong đó, 81% cho phép ngân hàng hợp đồng với đại lý bán lẻ làm kênh phân phối, 91% cho phép tổ chức phi ngân hàng hợp đồng với đại lý bán lẻ làm kênh phân phối. Hơn 60% số quốc gia còn cho phép các hợp tác xã tài chính, các tổ chức tài chính vi mô triển khai hoạt động này. Thực tiễn cho thấy, đại lý ngân hàng được coi là sáng kiến nổi bật cho việc thúc đẩy tài chính toàn diện.

Đơn cử, tại Ấn Độ đã phát triển thành công mô hình đại lý ngân hàng với mục tiêu mở rộng dịch vụ tài chính tới khu vực nông thôn, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc đẩy tài chính toàn diện. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng đại lý ngân hàng, thông qua dịch vụ tiền di động, đã tăng 25% trong vòng 5 năm trở lại đây. Thời gian và chi phí giao dịch qua kênh này cũng thấp hơn khoảng 30-40% so các kênh giao dịch truyền thống. Nhờ việc tiếp cận được các khoản tín dụng và sản phẩm tài chính mới từ đại lý, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đã mở rộng được hoạt động kinh doanh, tạo ra hàng triệu việc làm mới, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế ở nông thôn.

Tại Malaysia, Chương trình phát triển mạng lưới đại lý cho ngân hàng của Ngân hàng trung ương Malaysia năm 2012 được đánh giá là một trong 10 sáng kiến có tầm ảnh hưởng lớn trong khuôn khổ Chiến lược phát triển khu vực tài chính Malaysia giai đoạn 2011-2020. Cụ thể, Malaysia khuyến khích các tổ chức tài chính sử dụng cơ sở hạ tầng mở của các Fintech. Các tổ chức tài chính được cấp phép liên kết với các cửa hàng, đơn vị bán lẻ và bưu điện đặt tại những làng, xã không có chi nhánh ngân hàng để cung ứng các dịch vụ tài chính.

Indonesia cũng bắt đầu cho phép mô hình đại lý ngân hàng hoạt động từ năm 2013, các ngân hàng thương mại được phép hợp tác với các tổ chức phi ngân hàng để cung cấp dịch vụ tài chính cho cộng đồng thông qua các đại lý với các trách nhiệm cụ thể. Để hỗ trợ các công ty Fintech cải thiện, thử nghiệm các giải pháp này trên thị trường, Ngân hàng trung ương Indonesia tạo khung pháp lý thử nghiệm với nhiều giải pháp tài chính khác nhau dành cho các doanh nghiệp “siêu” nhỏ.

Việc Fintech phát triển nở rộ đã đưa Singapore trở thành “Fintech Hub” - trung tâm tài chính công nghệ, của khu vực Đông Nam Á, với nhiều dịch vụ gia tăng như tự động hóa các quy trình ghi sổ kế toán và an ninh mạng. Đây là các dịch vụ mà trước khi Fintech xuất hiện, được đánh giá là quá đắt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.