Chị Romah bên chiếc khung dệt lâu năm do mẹ để lại. (Ảnh: Thi Phong)
Chị Romah bên chiếc khung dệt lâu năm do mẹ để lại. (Ảnh: Thi Phong)

Bảo tồn và phát huy nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Chăm tại An Giang

Đồng bào Chăm ở An Giang hiện có khoảng 13.000 người (chiếm 0,67% dân số toàn tỉnh); sống tập trung các xã đầu nguồn ven sông Hậu thuộc các huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân và Châu Phú,... Điều đáng quý là đồng bào Chăm nơi đây vẫn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc mình, tiêu biểu là nghề dệt thổ cẩm.

Trao truyền nghề dệt qua nhiều thế hệ

Theo các nhà nghiên cứu, nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Chăm phát triển bắt đầu từ khoảng những năm đầu của thế kỉ XIX. Hầu như đến bất kỳ gia đình nào của người Chăm cũng dễ dàng bắt gặp chiếc khung dệt và hình ảnh những người phụ nữ cần mẫn ngồi dệt vải.

Chị Romah sống tại làng Chăm Đa Phước (xã Đa Phước, huyện An Phú, tỉnh An Giang) cho biết nghề dệt trong làng mình đã có từ rất lâu. Từ nhỏ chị đã biết bà ngoại truyền nghề cho mẹ, sau đó chị cũng được mẹ hướng dẫn học nghề thành thạo, để rồi lại tiếp tục hướng dẫn cho con gái. Có thể khẳng định nghề dệt đã gắn bó với lịch sử hình thành và phát triển của làng, tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng cho vùng đất này.

Chị chị Romah giới thiệu sản phẩm khăn kẻ caro do cơ sở của chị sản xuất. (Ảnh: Thi Phong)

Chị chị Romah giới thiệu sản phẩm khăn kẻ caro do cơ sở của chị sản xuất. (Ảnh: Thi Phong)

Cũng giống như chị Romah, anh Mohamad - chủ cơ sở dệt thổ cẩm Chăm truyền thống, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, cho biết nghề dệt thổ cẩm người Chăm đến đời của anh là đời thứ ba, và được truyền từ đời ông, đời bà, đến đời cha mẹ, và đến anh. Để phát huy nghề truyền thống của gia đình, anh đã phát triển nghề này rộng ra, bằng việc đa dạng sản phẩm, kết hợp với phát triển du lịch đưa khách tham quan đến đây trải nghiệm nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình.

Sản phẩm dệt thổ cẩm của người Chăm dễ nhận biết với các họa tiết đặc trưng đó là sóng nước, vân mây, ô vuông, kẻ sọc, lồng đèn, bông dâu,… Người Chăm tự dệt vải, tạo nên các trang phục cho mình để sử dụng trong đời sống hằng ngày như váy, áo, khăn đội đầu; xà rông của nam giới…

Kỹ thuật dệt thổ cẩm của người Chăm cũng khác biệt với kiểu dệt Ikat - dệt xà rông, theo đó dệt thổ cẩm phải xen kẽ giữa go nền và go hoa văn. Số lượng khung go thay đổi khác nhau tùy từng loại hoa văn như: Dệt thổ cẩm hoa văn dạng bông dâu cần 12 khung go, dạng mắt xích phải có 10 khung go, dạng mắc võng cần 9 khung go, hoa văn con thoi, cánh quạt 8 khung go… Với nguyên liệu chỉ tơ, sợi khá mảnh và dễ đứt nên người Chăm không dùng sợi go lược kẽm mà thay bằng go lược chỉ để giúp cho sợi chỉ khít hơn, khi dệt sản phẩm sẽ khắc mặt, mịn hơn. Người Chăm nhuộm tơ bằng các nguyên liệu tự nhiên giúp cho màu sắc trên sản phẩm vừa bền màu, vừa an toàn cho người sử dụng, tạo thành đặc trưng riêng không lẫn với những loại sản phẩm tơ sợi ở nhiều địa phương khác.

Làng vắng bóng khung dệt

Tuy nhiên hiện nay do nhiều nguyên nhân nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Chăm An Giang đang ngày càng mai một. Các sản phẩm dệt máy công nghiệp vừa nhanh, giá thành rẻ được người dân ưa chuộng khiến nghề dệt thủ công bị cạnh tranh khốc liệt được cho là nguyên nhân lớn nhất.

Nhớ lại quãng thời gian khoảng 10 năm trước, khi đến với làng Chăm Đa Phước, chúng tôi đã rất ấn tượng với sự kết hợp hiệu quả giữa nghề dệt thổ cẩm truyền thống với phát triển du lịch tại đây. Đi quanh làng dễ dàng bắt gặp những khung cửi trong các nếp nhà sàn truyền thống của đồng bào. Những phụ nữ Chăm với chiếc khăn trùm đầu truyền thống, ánh mắt sâu thăm thẳm ngồi mải miết bên khung dệt, vừa huyền bí vừa quyến rũ tạo nên nét đặc sắc cho ngôi làng, thu hút du khách phương xa lặn lội tìm đến.

Làng Chăm Đa Phước ngày càng vắng tiếng dệt vải. (Ảnh: Thi Phong)

Làng Chăm Đa Phước ngày càng vắng tiếng dệt vải. (Ảnh: Thi Phong)

Nhiều gia đình còn đầu tư sửa sang khuôn viên của nhà mình thành điểm trưng bày sản phẩm, đồng thời đặt các khung dệt cho khách trải nghiệm. Không khí trong làng khi đó rất nhộn nhịp với các đoàn khách tấp nập ghé thăm.

Trở lại làng Chăm Đa Phước vào trung tuần tháng 9/2024, một khung cảnh trái ngược hiện ra trước mắt tôi. Dù đang là giờ sáng nhưng trong làng khá yên ắng, tuyệt nhiên không có tiếng dệt vải vang lên. Chúng tôi gặp chị Romah đang trông coi cửa hàng trưng bày sản phẩm của gia đình. Chị cho biết cả làng hiện chỉ còn gia đình chị vẫn còn bám trụ lại với nghề dệt truyền thống. Những chị em khác trong làng hầu hết đã chuyển nghề khác vì doanh thu từ nghề dệt ngày càng bấp bênh, không đủ trang trải cuộc sống.

Các sản phẩm dệt của gia đình chị Romah. (Ảnh: Thi Phong)

Các sản phẩm dệt của gia đình chị Romah. (Ảnh: Thi Phong)

Nhìn gian hàng của chị Romah phần nào cho thấy sự suy tàn của nghề dệt tại đây. Khu vực trưng bày sản phẩm truyền thống do chính cơ sở của chị Romah làm ra chỉ vỏn vẹn vài chục chiếc khăn đặt trên một chiếc bàn gỗ khiêm tốn. Phần chính của cửa hàng là các sản phẩm khăn do chị nhập từ nơi khác về bán cho bà con và khách du lịch.

Chị tâm sự, hàng nhập về mẫu mã đa dạng nên được nhiều người ưa chuộng hơn sản phẩm truyền thống. Con gái được chị trao truyền nghề dệt nhưng giờ cũng lo buôn bán thêm, khi nào có khách đặt hàng mới hỗ trợ mẹ ngồi dệt.

Anh Jac Queqrya nhận mọi công việc về mộc trong làng. (Ảnh: Thi Phong)

Anh Jac Queqrya nhận mọi công việc về mộc trong làng. (Ảnh: Thi Phong)

Anh Jac Queqrya vốn được biết đến là thợ đóng khung dệt số một trong làng Chăm Đa Phước. Giai đoạn trước kia, khi nghề dệt hưng thịnh, anh làm không hết việc, thì nay anh đành phải nhận làm các việc liên quan nghề mộc như đóng bàn ghế, sửa nhà cửa,… vì làng chẳng còn mấy ai mặn mà với nghề dệt. Khung cửi bỏ không, quanh năm không dùng đến, bụi bặm và mạng nhện bám đầy.

Giải bài toán khó

Buồn vì nghề dệt truyền thống trong làng ngày một tàn lụi, nhưng chị Romah cũng phải thừa nhận rằng sản phẩm của mình không đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. Hiện chị chỉ dệt chủ yếu là khăn, với mẫu mã là kẻ sọc truyền thống, trong khi các sản phẩm tương tự trên thị trường được bày bán rất nhiều. Điểm hạn chế khác là việc tiếp cận thị trường của cơ sở dệt của chị Romah cũng chưa thực năng động, hầu hết là giao cho các mối quen bán ngoài chợ. Việc tiếp cận các loại hình mới như bán hàng online chị chưa cập nhật nên đành trông chờ vào con dâu và con gái. Tuy vậy, vì sản phẩm hiện tại chưa đa dạng, sức khỏe lại ngày một giảm sút nên chị cũng thiếu sự quyết liệt trong việc tìm những hướng đi mới cho cơ sở dệt thổ cẩm. Việc kinh doanh của gia đình duy trì theo kiểu có gì bán nấy. Nhất là sau khi dịch Covid-19 khiến các hoạt động kinh doanh, dịch vụ bị ảnh hưởng nặng nề khiến chị cũng có phần nản lòng.

Đây có lẽ là tâm lý chung của các thợ dệt trong làng Chăm Đa Phước nói riêng và tại nhiều làng Chăm ở An Giang nói chung, dẫn đến sự mai một của nghề truyền thống vốn gắn bó lâu đời với cộng đồng người Chăm.

Mạnh dạn tìm hướng đi mới

Ngày 6/3/2023, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 480/QĐ-BVHTTDL về việc công bố danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, theo đó nghề dệt thổ cẩm của người Chăm ở xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đây là niềm vinh dự, tự hào đối với làng Chăm Châu Phong và cũng là niềm vui chung của cộng đồng người Chăm ở An Giang. Đồng thời từ đây cũng góp phần tạo thêm động lực, niềm tin cho bà con, nhất là những người vẫn còn đang gắn bó, tha thiết với nghề dệt thổ cẩm của dân tộc mình.

Cửa hàng trưng bày tại làng Chăm Đa Phước chủ yếu nhập từ bên ngoài. (Ảnh: Thi Phong)

Cửa hàng trưng bày tại làng Chăm Đa Phước chủ yếu nhập từ bên ngoài. (Ảnh: Thi Phong)

Tuy nhiên để góp phần đưa nghề dệt thổ cẩm của người Chăm ở An Giang thực sự khởi sắc, có bước tiến mới rất cần sự hỗ trợ của chính quyền và các cơ quan chức năng trong việc tạo cơ chế chính sách, đào tạo nghề, kết nối tìm đầu ra cho sản phẩm, thúc đẩy phát triển du lịch làng nghề giúp bà con có thêm sinh kế và gắn bó với nghề, đẩy mạnh công tác truyền thông, quảng bá giới thiệu làng nghề,...

Về phía cộng đồng người Chăm cần phát huy ý thức gìn giữ nghề truyền thống, góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc. Theo đó người làm nghề dệt cần phát huy tính sáng tạo, thiết kế thêm nhiều mẫu mã sản phẩm đa dạng phù hợp yêu cầu ngày càng cao của thị trường, chủ động tiếp cận và mở rộng các kênh tiếp thị, nhất là các trang mạng xã hội,… Phối hợp các tour du lịch, mời gọi khách tham quan đến tìm hiểu, trải nghiệm,…

Mong rằng tới đây, các sản phẩm dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Chăm ở An Giang nói riêng và đồng bào Chăm nói chung sẽ ngày càng phát huy giá trị, vừa mang lại sinh kế cho bà còn, vừa góp phần lưu giữ và thúc đẩy sự phát triển của văn hóa truyền thống trong đời sống hiện đại.

Có thể bạn quan tâm

Giấy bản được dùng để ghi chép tri thức dân gian, lễ nghi và phong tục, lưu giữ những ký ức văn hóa cộng đồng.

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Ẩn mình giữa núi rừng vùng cao, những tấm giấy bản mỏng nhẹ nhưng dai bền vẫn lặng lẽ gìn giữ kho tàng tri thức dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Giấy bản không chỉ là chất liệu, mà còn là minh chứng sống động cho một nghề thủ công giản dị, âm thầm bền bỉ trước sự bào mòn của thời gian.

Chủ homestay Bản Liền Vàng Thị Thông: “Gia đình Haha là kỷ niệm đẹp nhất đời của chúng tôi”

Chủ homestay Bản Liền Vàng Thị Thông: “Gia đình Haha là kỷ niệm đẹp nhất đời của chúng tôi”

Những ngày qua, Bản Liền (Bắc Hà, Lào Cai) là địa danh được biết đến và tìm kiếm nhiều nhất trên mạng xã hội nhờ hiệu ứng của Chương trình Gia đình Haha. Chương trình đã để lại những ấn tượng và cảm xúc đặc biệt không chỉ cho những người tham gia, mà còn cả cho khán giả, và mở ra một chặng đường mới cho bà con người Tày ở đây.

Bạc được kéo thành sợi, nguyên liệu thô cho các công đoạn chế tác vòng cổ, vòng tay và xà tích.

[Video] Chạm bạc - nghề thủ công gắn với bản sắc đồng bào Nùng

Giữa những thửa ruộng bậc thang hùng vĩ ở Hoàng Su Phì, tỉnh Tuyên Quang (trước đây là tỉnh Hà Giang), nghề chạm bạc truyền thống của đồng bào Nùng tại xã Pờ Ly Ngài vẫn được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Không chỉ là sinh kế, nghề còn là biểu tượng văn hóa, gắn liền với tín ngưỡng, tổ tiên và niềm tự hào về cội nguồn.

Nghi thức trao lễ vật nhà trai cho nhà gái trong lễ cưới người Giáy.

Lễ cưới người Giáy - Duyên dáng một bản sắc

Lễ cưới của người Giáy không chỉ là khúc hát se duyên đôi lứa, mà còn là nơi chảy mãi mạch nguồn văn hóa của một tộc người giữa đại ngàn Tây Bắc. Qua từng nghi thức, lễ vật và câu hát giao duyên, hiện lên một bản sắc riêng đầy quyến rũ, góp phần làm nên vẻ đẹp bức tranh văn hóa Việt Nam.

Cây nêu bên mái nhà Gươi, biểu tượng văn hóa của người Cơ Tu. (Ảnh: Thế Dương)

Độc đáo nghệ thuật trang trí cây nêu của đồng bào Cơ Tu

Cây nêu một biểu tượng văn hóa thiêng liêng, giữ vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần của đồng bào Cơ Tu, tỉnh Quảng Nam. Không chỉ là nhịp cầu kết nối giữa con người với thế giới thần linh, cây nêu còn là tác phẩm mỹ thuật dân gian, kết tinh vẻ đẹp, trí tuệ sáng tạo và bản sắc văn hóa của người Cơ Tu.

Phụ nữ Dao quần trắng ở xã Phúc An, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. (Ảnh: VŨ LINH)

Bản sắc người Dao quần trắng nơi lòng hồ Thác Bà

Xã Phúc An, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái là nơi cư trú lâu đời của cộng đồng người Dao quần trắng. Trong nhịp sống hiện đại, người Dao quần trắng vẫn gìn giữ những giá trị gắn bó với bản sắc tộc người. Nổi bật là trang phục truyền thống và nghề đan rọ tôm, phản ánh lối sống gắn với thiên nhiên vùng ven hồ Thác Bà.

Những mái nhà phủ rêu ở thôn Khuổi Mỹ, xã Phương Độ, thành phố Hà Giang. (Ảnh: VŨ LINH)

Khuổi My trong sương: Miền cổ tích trên sườn Tây Côn Lĩnh

Chỉ cách trung tâm thành phố Hà Giang hơn chục cây số, thôn Khuổi My, xã Phương Độ như một miền cổ tích còn sót lại giữa núi rừng. Ở độ cao gần 1000m so với mực nước biển, Khuổi My quanh năm sương mù bao bọc, phủ một lớp mỏng manh lên mái nhà, bờ rào, con dốc... Cả thôn như đang trôi giữa những tầng mây.
Ngôi nhà cổ Há Súng ngày càng xuống cấp theo thời gian. (Ảnh: VŨ LINH)

Há Súng - Bóng thời gian trên cao nguyên đá

Nằm vững chãi trên một gò đất cao giữa thôn Há Súng, xã Lũng Táo, huyện Đồng Văn (Hà Giang), ngôi nhà cổ trăm tuổi vẫn lặng lẽ giữ gìn những dấu ấn của một thời dù lớp bụi thời gian đã nhuộm phai từng mảng tường, từng đường nét chạm khắc.
Đông đảo người dân và du khách tham gia hoạt động trải nghiệm "Giữ màu di sản".

Trải nghiệm nét văn hóa vẽ sáp ong trên vải của người Mông tại Thủ đô

Hưởng ứng Ngày Quốc tế Bảo tàng 2025 với chủ đề “Tương lai của bảo tàng trong các cộng đồng thay đổi nhanh chóng”, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam tổ chức sự kiện hoạt động trải nghiệm "Giữ màu di sản". Sự kiện giới thiệu về kỹ thuật tạo hoa văn sáp ong và nhuộm vải gắn liền với đôi bàn tay tài khéo của người phụ nữ Mông.

Phụ nữ Thái ở bản Hoa Tiến vẫn bền bỉ gìn giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống.

Thổ cẩm Hoa Tiến - Dấu ấn văn hóa từ bàn tay người phụ nữ Thái

Bản Hoa Tiến (xã Châu Tiến, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An) từ lâu được xem là “bảo tàng sống” lưu giữ đậm nét văn hóa truyền thống của người Thái vùng Tây Bắc xứ Nghệ. Trong kho tàng ấy, nghề dệt thổ cẩm không chỉ góp phần làm đẹp cho đời sống mà còn là biểu tượng của bản sắc, được gìn giữ và trao truyền qua bao thế hệ. 

Giai điệu mộc mạc của sáo cúc kẹ lan tỏa tinh thần gìn giữ văn hóa truyền thống dân tộc.

[Video] Sáo cúc kẹ, "báu vật" văn hóa của đồng bào Xa Phó

Sáo cúc kẹ, loại nhạc cụ độc đáo của đồng bào Xa Phó ở xã Châu Quế Thượng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, không chỉ là nhạc cụ dân gian thổi bằng mũi, mà còn là kết tinh của đời sống văn hóa, tín ngưỡng và tâm hồn nghệ thuật vùng cao Tây Bắc.

Người dân tham gia thi giã bánh dày - một hoạt động truyền thống trong ngày hội Kiêng gió.

Tục Kiêng gió - Nét văn hóa tâm linh đặc sắc của đồng bào Dao Thanh Phán ở Quảng Ninh

Mỗi dịp 4/4 (Âm lịch) hằng năm, bản làng người Dao Thanh Phán ở xã Đồng Văn, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh lại rộn ràng trong sắc màu của lễ hội Kiêng gió, một nghi lễ dân gian đậm đà bản sắc văn hóa, thể hiện niềm tin sâu sắc của đồng bào Dao vào sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên. Không chỉ là ngày hội văn hóa tâm linh, lễ hội Kiêng gió còn là điểm hẹn của cộng đồng, nơi người dân các dân tộc cùng nhau gặp gỡ, vui chơi và lan tỏa tinh thần đoàn kết.
Nghệ nhân Nay Phai đang thử độ ngân khi chỉnh chiêng. (Ảnh: NX)

Gìn giữ di sản cồng chiêng từ đôi tay nghệ nhân

Giữa không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, có những con người đặc biệt được giao trọng trách gìn giữ những thanh âm của đại ngàn. Nghệ nhân Nay Phai, người con của mảnh đất Gia Lai, với tài năng và tâm huyết, không chỉ lưu truyền âm thanh đặc trưng của cồng chiêng, mà còn thổi vào từng tiếng ngân vang, làm sống lại sức sống mãnh liệt của di sản vô giá này.

Nghệ nhân Lò Văn Biến đang thổi khèn bè – một trong những loại nhạc cụ truyền thống quan trọng trong đời sống văn hóa của đồng bào Thái.

Nghệ nhân Lò Văn Biến - Di sản Xòe Thái trường tồn

Nghệ nhân Lò Văn Biến, người được ví như "pho sử sống" của văn hóa dân tộc Thái, đã dành cả cuộc đời để gìn giữ và phát huy di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc Thái, đặc biệt là điệu Xòe. Ông là một trong những người đầu tiên nghiên cứu và sưu tầm những điệu Xòe cổ, giúp chúng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2015.
Trang phục không chỉ là váy áo – đó là cả một di sản văn hóa được thiếu nữ H’Mông nâng niu gìn giữ

Trang phục truyền thống dân tộc H’Mông - Di sản văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc

Trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, trang phục truyền thống của đồng bào H’Mông là một trong những biểu tượng nổi bật thể hiện đậm nét bản sắc, đời sống và tâm hồn của cộng đồng. Với thiết kế độc đáo, màu sắc rực rỡ và hoa văn tinh xảo, trang phục dân tộc H’Mông không chỉ là lớp áo khoác ngoài, mà là tấm gương phản chiếu đời sống tinh thần của người H’Mông.
Biểu diễn trống paranưng trong một sự kiện văn hóa của đồng bào Chăm (Ảnh NX)

Tiếng trống, tiếng kèn kể chuyện văn hóa Chăm

Giữa không gian văn hóa đặc trưng của đồng bào Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận, bộ ba nhạc cụ truyền thống gồm trống Paranưng, trống Ghi-năng và kèn Saranai không chỉ đơn thuần là phương tiện biểu diễn, mà còn là biểu tượng văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần và tín ngưỡng cộng đồng.

Nghệ sĩ tỳ bà Diệu Thảo (giữa) và các học trò của mình. (Ảnh: NVCC)

Vũ Diệu Thảo phát hành album nhạc cách mạng với 54 bản độc tấu tỳ bà

Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, nghệ sĩ tỳ bà Vũ Diệu Thảo đã ra mắt khán giả một dự án âm nhạc dân tộc độc đáo: Biểu diễn 54 bản độc tấu tỳ bà với các bài hát cách mạng, mang ý nghĩa tinh thần đại đoàn kết của dân tộc thông qua sự kết nối âm nhạc của 54 dân tộc anh em.

Sin Suối Hồ - Bản tình ca của hoa và những nụ cười

Sin Suối Hồ - Bản tình ca của hoa và những nụ cười

Giữa đại ngàn Tây Bắc, có một bản làng người Mông từng nghèo khó, từng vật lộn với những hủ tục lạc hậu, nay bừng sáng lên bởi hoa, bởi những nụ cười và niềm tin vào tương lai. Đó là Sin Suối Hồ - điểm du lịch cộng đồng nổi bật của Lai Châu, nơi hội tụ vẻ đẹp thiên nhiên, bản sắc Mông và hành trình đổi thay đầy cảm hứng.

Rực rỡ sắc màu Chôl Chnăm Thmây

Rực rỡ sắc màu Chôl Chnăm Thmây

Giữa những ngày tháng 4, khi lúa trên đồng vừa vào đòng, cây thốt nốt vươn cao như đón nắng hè, cũng là lúc đồng bào Kh’mer Nam Bộ hân hoan đón chào Tết Chôl Chnăm Thmây – Tết cổ truyền thiêng liêng và rực rỡ sắc màu. Không chỉ là dịp để tiễn đưa năm cũ, đón năm mới, đây còn là khoảng thời gian đặc biệt để con cháu sum vầy, báo hiếu, cầu an và gìn giữ những giá trị văn hóa tâm linh truyền thống.
Đánh yến - Nét đẹp văn hóa của người Lô Lô đen

Đánh yến - Nét đẹp văn hóa của người Lô Lô đen

Vào lễ hội tháng Giêng hay các dịp lễ, Tết, các bản làng người Lô Lô đen ở Cao Bằng lại rộn rã tiếng hát giao duyên và các trò chơi dân gian đặc sắc. Trong đó, “Đánh yến” không chỉ là thú vui giải trí mà còn mang ý nghĩa tín ngưỡng, gửi gắm mong muốn âm dương hòa hợp, mùa màng bội thu, cuộc sống may mắn.
Từ bao đời nay, cuộc sống của người Thái luôn gắn liền với những con sông, con suối. (Trong ảnh: Bà con thi bắt cá suối.)

Tái hiện đời sống gắn với sông suối của người Thái qua lễ hội Then Kin Pang

Người Thái ở Lai Châu chiếm gần 32% dân số toàn tỉnh. Từ bao đời nay, đời sống của bà con luôn gắn liền với các con sông, con suối. Sông, suối cung cấp nguồn nước sinh hoạt và phục vụ canh tác nông nghiệp. Sông, suối cũng cung cấp nguồn sinh thủy dồi dào, phát triển nghề chài lưới, đánh bắt thủy sản; lưu giữ một phần văn hóa trong đời sống sinh hoạt thường ngày của bà con.