Những ngày lặng lẽ cuối cùng của voi nhà Buôn Đôn

Nhắc đến Buôn Đôn (Đắk Lắk), người ta nghĩ ngay đến hình ảnh những chú voi nhà vạm vỡ, oai vệ, gắn bó với đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số từ bao đời nay. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng voi nhà ở đây đang suy giảm nhanh chóng, đe dọa sự tồn vong của loài vật này và cả những giá trị văn hóa liên quan.
0:00 / 0:00
0:00
Những ngày lặng lẽ cuối cùng của voi nhà Buôn Đôn

Biểu tượng dần phai

Hội voi Buôn Đôn năm 2025 là một phần của Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột, nhưng khác với những năm trước, voi chỉ xuất hiện trong các nghi lễ cúng sức khỏe, diễu hành, trang trí, tham gia tiệc buffet cùng du khách. Việc loại bỏ các cuộc thi thể lực giúp bảo vệ sức khỏe cho voi, đúng với cam kết giữa UBND tỉnh Đắk Lắk và Tổ chức Động vật châu Á (AAF).

Dù vậy, không ít người vẫn tiếc nuối không khí náo nhiệt từng có của hội đua voi ngày nào. Ông Y Lươm Knul, Phó Chủ tịch UBND xã Krông Na, huyện Buôn Đôn chia sẻ, trước đây, hội voi là niềm tự hào của người dân Buôn Đôn. Nay không còn đua voi, lễ hội vắng vẻ, lặng lẽ hơn. Voi nhà ở xã này còn rất ít, chỉ có 6 cá thể tham gia lễ hội vừa qua, trong đó 3 con thuộc sở hữu tư nhân là voi Bạc Plang của ông Y Lit Ksor, voi Khăm Sinh nhà ông Y Hới Byă và voi Bun Nang nhà ông Y Soh Hra. Ba con còn lại do các công ty du lịch quản lý.

Tuy giờ đây, khi tham gia lễ hội voi không còn bị dí dùi sắt bắt chạy đua, đá bóng… mua vui nữa nhưng thân thể chúng cũng đã xác xơ sau mấy chục năm “cống hiến” cho chủ. Trong đoàn du khách lặn lội từ Hải Phòng, ông Mạnh Tuấn cùng vợ vào xem hội giữa trưa nắng rát. Nhìn những chú voi buồn bã, tha thẩn, lạc lõng giữa rộn ràng cồng chiêng, ông không khỏi chạnh lòng. Ông Tuấn cho biết, ông từng xem hội voi Buôn Đôn nhiều năm trước, khi các chú voi lừng lững mạnh khỏe xông xáo nhưng giờ khác quá. Không phải buồn vì lễ hội ít nội dung mà vì nhìn đàn voi, ông thấy thương cho chúng.

Trước đây, voi nhà từng là niềm tự hào của Tây Nguyên. Chúng không chỉ tham gia vào các lễ hội văn hóa mà còn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống thường ngày của người dân. Trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ, voi nhà còn trở thành lực lượng hậu cần quan trọng của quân giải phóng, tham gia vận chuyển lương thực, đạn dược phục vụ chiến đấu. Sau ngày giải phóng 30/4/1975, voi tiếp tục gắn bó với đời sống dân sinh, giúp vận chuyển hàng hóa, kéo gỗ và trở thành biểu tượng không thể thiếu trong các lễ hội truyền thống.

Từ khi có lệnh cấm săn bắt voi rừng, đàn voi nhà không còn được bổ sung thêm, số lượng voi giảm dần qua từng năm. Nếu những năm 1980, Đắk Lắk có khoảng 500 cá thể voi nhà, thì đến nay số lượng này chỉ còn hơn 30 cá thể, chủ yếu tập trung ở hai huyện Buôn Đôn và Lắk. Ông Y Lươm cho biết, số lượng voi nhà ngày càng giảm do nhiều nguyên nhân. Hơn 10 năm trở lại đây ngoài các voi già yếu, chết vì bệnh, thì hơn chục con khác thiệt mạng do bị voi rừng tấn công, sập bẫy, bị bọn xấu giết hại lấy ngà, lông đuôi mà chết. Điều này phản ánh thực trạng đáng báo động về sự suy giảm đàn voi nhà. Rồi sẽ đến một ngày lễ hội voi Buôn Đôn truyền thống của Tây Nguyên sẽ không còn tồn tại, ông Y Lươm buồn bã.

Những ngày lặng lẽ cuối cùng của voi nhà Buôn Đôn ảnh 1

Voi Bạc Plang và chủ của mình Y Lit Ksor tại lễ hội voi Buôn Đôn 2025.

Chủ voi trước những ngã rẽ

Từ năm 2022, UBND tỉnh Đắk Lắk đã ký kết bản ghi nhớ với AAF về việc chuyển đổi mô hình du lịch cưỡi voi sang du lịch thân thiện. Dự án này có tổng kinh phí hơn 55 tỷ đồng, thực hiện trong 4 năm (2022-2026). Mục tiêu của dự án là triển khai mô hình hoạt động du lịch thân thiện với voi, chấm dứt các hoạt động du lịch cưỡi voi và nâng cao phúc lợi cho các cá thể voi nhà, duy trì, bảo tồn quần thể voi nhà ở địa phương.

Khu du lịch cầu treo Buôn Đôn là đơn vị đang sở hữu 2 cá thể voi nhà là Khăm Gộc và H’Khun. Khi việc cho du khách cưỡi voi đã bị dừng lại, hàng ngày các chú voi dạo chơi trong khu du lịch cho khách ngắm, tham gia các hoạt động du lịch thân thiện. Các nội dung tương tác với voi như mở tiệc buffet cho voi, tham gia lễ cúng sức khỏe cho voi, cho voi ăn... đã mang lại cho du khách sự gần gũi thân thiện với voi. Bà Trần Thị Kim Ánh, Giám đốc khu du lịch cho biết, tại đây, voi được chăm sóc khá tốt. Nếu voi có vấn đề về sức khỏe, chúng tôi sẽ đưa ra Trung tâm bảo tồn voi Đắk Lắk chữa trị. Vào thời kỳ động dục, voi được nghỉ ngơi, không phải tham gia vào bất cứ hoạt động nào. Bình thường vào ban ngày các chú voi tham gia các chương trình du lịch, tối lại được thả về rừng.

Khác với ở khu du lịch, khi ngắm voi chỉ là một phần trong tổng thể các dịch vụ có thu, thu nhập của chủ voi cá nhân lại sụt giảm nghiêm trọng nếu tham gia vào chương trình, bởi trước đây một con voi có thể mang lại hàng trăm triệu đồng mỗi năm từ hoạt động cưỡi voi. Do vậy, một số chủ voi vẫn do dự trong việc tham gia dự án bảo tồn. Theo ông Y Lươm Knul, ở Krông Na hiện chỉ còn 3 voi nhà chưa tham gia vào chương trình này: Bạc Plang, Khăm Sinh và Bun Nang. Những người chủ voi như ông Y Lit Ksor hay Y Hới Byă vẫn nuôi voi như thành viên trong gia đình, không muốn xa rời chúng. Nhưng chi phí nuôi voi đắt đỏ, các chủ voi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thả voi về rừng để tự kiếm ăn.

Tuy nhiên, môi trường tự nhiên ngày càng bị thu hẹp, thức ăn khan hiếm, dẫn đến nguy cơ voi bị chết đói hoặc bị voi rừng tấn công. Bạc PLang khi được thả vào rừng tự kiếm ăn đã từng bị voi rừng tấn công, cắn nát, cụt mất đuôi. Ngay cả chú voi một ngà Y Gen thuộc Công ty du lịch sinh thái Ánh Dương cũng từng bị voi rừng tấn công rách đầu, đứt tai. Giờ đây việc tìm nguồn sinh kế thay thế cho các chủ voi cũng đang là vấn đề cần giải quyết trước mắt đối với các cấp chính quyền địa phương.

Những ngày lặng lẽ cuối cùng của voi nhà Buôn Đôn ảnh 2

Voi nhà làm mẫu cho du khách chụp ảnh tại ngày hội.

Voi nhà không còn sinh sản

Điều đáng buồn đối với thủ phủ voi Buôn Đôn khi voi nhà gần như không còn sinh sản. Trong vài chục năm qua, không một chú voi con nào được sinh ra tại Buôn Đôn nữa từ khi voi Khăm Sing được voi mẹ đẻ ra tại nhà. Dù có một số cá thể voi đực trong độ tuổi sinh sản như Bạc PLang, Khăm Sing mới khoảng 35 đến 40 tuổi, nhưng việc nhân giống tự nhiên đã không còn xảy ra. Nguyên nhân chính là do môi trường sống thu hẹp, voi bị nuôi nhốt trong thời gian dài và phải tham gia các hoạt động du lịch quá sức.

Hiện tại ở huyện Lăk, vẫn còn gần chục con voi nhà, nhưng một trong những chủ voi lớn nhất Tây Nguyên, “vua voi” Đàng Năng Long, người từng nỗ lực tìm cách ghép đôi cho voi nhà sinh sản thì cũng vừa đột ngột qua đời, để lại những ấp ủ dang dở về công tác bảo tồn, chăm sóc voi nhà. Theo ông Y Lươm, trước đây phương pháp thụ tinh nhân tạo cũng đã được áp dụng cho voi nhà nhưng không thành công. Cho đến nay, dù đã có những chính sách cụ thể giúp hỗ trợ voi nhà sinh sản, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra phương pháp nào để bảo tồn và phát triển voi nhà. Trong khi đàn voi đã lớn tuổi, không sinh sản thành công, nguy cơ tuyệt chủng là rất cao.

Trước đây, voi như thành viên của gia đình. Sau khi được bắt, thuần dưỡng hay mua về, voi được cúng đặt tên theo họ của chủ. Voi được xếp thứ bậc trong nhà, nó sẽ là anh của trẻ sinh ra sau đó. Nếu ốm đau, voi được cúng sức khỏe, cúng sinh nhật, khi chết voi được làm đám ma và chôn cất như người. Giọng đượm buồn, ông Y Lươm thủng thẳng, đến khi nào mấy chú voi này chết đi, Krông Na rồi rộng hơn là Buôn Đôn hay cả Tây Nguyên cũng sẽ hết sạch voi nhà. Di sản văn hóa tạo dựng quanh voi nhà như lễ cúng sức khỏe, sinh nhật, đặt tên cho voi, tri thức thuần phục voi… cũng sẽ bị mai một.

Những ngày lặng lẽ cuối cùng của voi nhà Buôn Đôn ảnh 3

Voi thuộc Khu du lịch cầu treo Bản Đôn được nài chăn thả trong môi trường bán tự nhiên.

Dù mô hình du lịch thân thiện với voi là một bước đi cần thiết để bảo vệ loài vật này, nhưng bài toán cân bằng giữa bảo tồn và phát triển kinh tế vẫn còn nhiều thách thức. Để giữ gìn voi nhà, không chỉ cần những giải pháp khoa học về sinh sản, mà còn cần có cơ chế hỗ trợ người dân nuôi voi, bảo đảm vừa bảo tồn được loài voi, vừa giữ được bản sắc văn hóa Tây Nguyên. Một ngày nào đó, voi nhà biến mất, Buôn Đôn sẽ mất đi linh hồn của mình. Và khi ấy, vùng đất từng được gọi là “xứ sở voi” có lẽ chỉ còn là một ký ức xa vời.