Bản Hiệp định không phản ánh đúng tình hình thực tiễn
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơ-nevơ được ký kết với nhiều văn kiện quan trọng. Việt Nam đến Hội nghị với tư thế của người chiến thắng trên chiến trường, nhưng lại không có vị thế cao về ngoại giao trên bàn Hội nghị. Trong số chín thành viên dự Hội nghị thì phía Pháp có sáu (Pháp, Mỹ, Anh và ba chính quyền do Pháp bảo trợ tại Lào, Cam-pu-chia và Việt Nam). Việt Nam chỉ có hai bạn đồng minh là Liên Xô và Trung Quốc. Hai "đồng minh cùng phe" lại có những toan tính riêng của mình. Việc bàn giải pháp cho cuộc chiến Đông Dương không do hai bên trực tiếp tham chiến mà do các "nước lớn" giữ vai trò chính. Pháp là bên tham chiến trực tiếp, mặc dù đã thất bại trong trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, muốn rút khỏi "bãi lầy chiến tranh" Đông Dương trong danh dự nhưng luôn lẩn tránh đàm phán trực tiếp với phái đoàn Việt Nam mà dùng vai "nước lớn" để thỏa thuận ngầm với Liên Xô và đặc biệt là với Trung Quốc.
Trung Quốc đã tìm mọi cách dàn xếp các vấn đề tại Hội nghị với mục đích giành lợi ích quốc gia, chia cắt Việt Nam lâu dài để tạo một "khu đệm" tránh cho Trung Quốc đối đầu sát cạnh lực lượng của Mỹ (như với Triều Tiên)...
Ở trong nước, Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn với nền kinh tế kiệt quệ, không có giao thương quốc tế. Lực lượng vũ trang vẫn ở thế yếu hơn so với Pháp. Nếu so sánh các con số, lực lượng Pháp ở Đông Dương vẫn chiếm ưu thế. Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghi rõ: Theo sử gia Pháp Y. Gra-đơ (Yves Grade) thì sau Điện Biên Phủ "so sánh lực lượng không thay đổi và ưu thế của quân viễn chinh về vật chất vẫn ở thế áp đảo như trước trận đánh... Nước Pháp tuy lâm vào tình thế cực kỳ khó khăn, nhưng chưa phải đã hết khả năng tăng viện cho chiến trường Đông Dương". Đứng sau Pháp là Mỹ "Và Mỹ chắc chắn sẽ không để Pháp phải một mình đối phó với tình thế" (1).
Vì không có phương tiện liên lạc trực tiếp với Việt Bắc, các kênh liên lạc của đoàn Việt Nam đều nhờ Trung Quốc. Do gặp nhiều bất lợi, lại bị cô lập và không có kinh nghiệm đàm phán, ta đã không kiên trì bảo vệ được những yêu cầu quan trọng của mình.
Trong tương quan thế và lực như vậy, Việt Nam đã buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ với sự thiệt thòi trong việc phân chia lãnh thổ (vĩ tuyến 17 thay cho vĩ tuyến 13) và thời hạn tổng tuyển cử thống nhất đất nước bị kéo dài (hai năm so với sáu tháng). Lực lượng cách mạng ở Cam-pu-chia không có vùng tập kết. Vùng tập kết của lực lượng cách mạng Lào chỉ là hai tỉnh Phong-sa-lỳ và Sầm Nưa -nhỏ hơn nhiều so với vùng giải phóng trên thực tế. Kết quả này có thể coi là phù hợp với tình thế lúc đó?
Tuy vậy, với Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kết thúc được chiến tranh, buộc Pháp phải rút hết quân và công nhận quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; giải phóng hoàn toàn miền bắc để có điều kiện xây dựng những cơ sở vật chất đầu tiên cho xã hội XHCN trong điều kiện hòa bình; tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh thống nhất đất nước sau đó...
Hiệp định Giơ-ne-vơ là kết quả của chín năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng, nhiều hy sinh gian khổ của nhân dân Việt Nam, nhưng đó là kết quả không tương xứng với thực tế trên chiến trường. Nhân dân cả hai miền Nam - Bắc còn phải đi tiếp chặng đường dài 21 năm với biết bao hy sinh, mất mát để đạt tới điều lẽ ra đã diễn ra tháng 7-1956.
Bài học cho hôm nay
Trước hết là bài học về kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngoại giao với quân sự, tạo cục diện vừa đánh vừa đàmđể đối phó với kẻ địch mạnh hơn; kiềm chế kẻ thù, tạo dư luận quốc tế, gây áp lực buộc đối phương xuống thang cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán. Bài học này đã được vận dụng thành công ở Hội nghị Pa-ri và chúng ta đã đạt thắng lợi lớn.
Trong đấu tranh ngoại giao, điều cốt yếu là phải nhận rõ chiến lược và những mục tiêu của các nước lớn để có chiến lược và sách lược đối phó hiệu quả. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy những nước lớn luôn có những toan tính chiến lược riêng. Những toan tính đó thành công đến mức nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết là sự cân đối giữa những nhu cầu và năng lực của chủ thể. Bên cạnh và cùng với đó là việc điều chỉnh, cân bằng những mối quan hệ quốc tế và khu vực. Trong bối cảnh những vấn đề trong quan hệ quốc tế (kể cả những vấn đề song phương giữa hai nước) đều được đặt trong tương quan với các mối quan hệ khu vực, trong một thế giới đang toàn cầu hóa và mỗi nước lớn đều phải cân nhắc đến phản ứng của những nước lớn khác - những tính toán này không thể không quan tâm đến tiếng nói của khu vực và từng nước liên quan. Các nước lớn vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành và chi phối những sự kiện, những mối liên kết, liên minh, những hợp đồng kinh tế lớn nhưng sẽ không dễ áp đặt những toan tính của mình như trong những giai đoạn trước. Ở Giơ-ne-vơ năm 1954, Việt Nam đã phải thuận theo nhiều lời "chỉ dẫn" bất lợi từ các "đồng minh" của mình. Sau này, khi tổng kết về Hội nghị Giơ-ne-vơ, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói rõ: "Mỹ, Anh, Pháp đều đi đến nhất trí về chia cắt Việt Nam. Liên Xô, Trung Quốc tán thành giải pháp ấy và ép ta. Vấn đề này đối với tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Ta không độc lập, tự chủ, ta cả tin bạn"(2). Bài học sâu sắc rút ra là: Trong các mối quan hệ quốc tế không bao giờ được mơ hồ, ảo tưởng.
Kinh nghiệm lịch sử cũng chỉ ra rằng, tiếng nói của khu vực và các nước vừa và nhỏ có sức nặng đến mức nào phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó một phần lớn phụ thuộc vào sự chủ động, nhạy bén, khôn khéo của những nước này với các nước lớn và cả giữa các nước vừa và nhỏ với nhau.
Từ lâu, nỗ lực gia tăng sức mạnh quân sự cùng với sự lớn mạnh về kinh tế thể hiện tham vọng (không giấu giếm) của Trung Quốc khẳng định vai trò cường quốc (trước hết) trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. "Cánh cửa" và "sân chơi" quan trọng mà Trung Quốc "bước ra" và thể hiện vai trò, sức mạnh nhập cuộc của mình chính là Đông - Nam Á - với tiêu điểm là những đặc quyền ở Biển Đông.
Từ ngày 2-5-2014 đến nay, Biển Đông lại dậy sóng vì những hành động và đi cùng theo đó là những tuyên bố ngang ngược của Trung Quốc trong vụ việc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Hôm nay, không còn sự lựa chọn khác cho dân tộc Việt Nam là phải vươn lên thành quốc gia mạnh về biển. Trực diện đối mặt với thực tế và trước trào lưu của thời đại biển, dân tộc Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn, có quan hệ đến sự phát triển của đất nước, dân tộc hiện tại và tương lai.
| Sau 60 năm nhìn lại, bài học lớn nhất, bao quát nhất nhìn từ Hiệp định Giơ-ne-vơ là tinh thần độc lập tự chủ. Vị trí địa - chính trị của Việt Nam có giá trị như một loại "tài nguyên" quan trọng cần được "khai thác" tốt làm tăng vai trò của ta trong khu vực. Nhưng vai trò đó còn tỷ lệ thuận với sự vững mạnh của quốc gia, sự năng động trong các mối quan hệ song phương và đa phương được dẫn dắt bằng một đường lối ngoại giao sáng suốt. |
------------------
(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (2011) - Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội tr. 1106.
(2) Dẫn lại Khắc Huỳnh - Nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao - Bộ Ngoại giao, Hội nghị Geneva về Đông Dương - Xuất bản năm 1964, tr. 54.