Mua bán và sáp nhập trong lĩnh vực bán lẻ:

Không thể cản bước doanh nghiệp ngoại

Cuối cùng thì cuộc đua giành quyền mua chuỗi siêu thị Big C Việt Nam của tập đoàn Casino Group (Pháp) cũng đã kết thúc. Ngày 29-4 vừa qua, cả Central Group và Casino Group cùng lên tiếng xác nhận chuỗi siêu thị Big C Việt Nam sẽ chính thức được bán cho tập đoàn Central Group của Thái-lan.

Hệ thống bán lẻ bị dẫn dắt bởi các tập đoàn nước ngoài.
Hệ thống bán lẻ bị dẫn dắt bởi các tập đoàn nước ngoài.

Theo đó, Central Group sẽ trả cho Casino Group 920 triệu euro, tương đương 1,05 tỷ USD, để sở hữu toàn bộ hơn 30 siêu thị Big C nằm rải rác trên khắp cả nước. Như vậy, Big C là chuỗi siêu thị lớn thứ hai ở Việt Nam rơi vào tay người Thái, sau Metro Cash & Carry trước đó đã bị thâu tóm bởi tập đoàn TCC Holdings. Và một lần nữa, các doanh nghiệp nội lại thua trong cuộc đua mua lại hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại từ tay các hãng bán lẻ nước ngoài. Trong thương vụ Big C, Saigon Co.op thậm chí đã lọt vào vòng cuối cùng với Central Group, theo thông tin từ ông Diệp Dũng, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Saigon Co.op, nhưng cuối cùng Saigon Co.op lại chịu thua vì vướng mắc trong việc xin phép đầu tư ra nước ngoài.

Với Central Group, thâu tóm thành công Big C sẽ nâng cao đáng kể vị thế của tập đoàn này trên thị trường bán lẻ Việt Nam, dù tập đoàn này mới bước chân vào Việt Nam từ năm 2011. Theo thông báo của Central Group, hiện tập đoàn này có hơn 6.600 nhân viên tại Việt Nam, làm việc tại 100 cửa hàng với các mô hình bán lẻ khác nhau bao gồm bốn trung tâm thương mại, 27 cửa hàng thể thao, 30 cửa hàng thời trang, một khách sạn; 21 trung tâm bán lẻ điện máy, một kênh thương mại điện tử, 13 siêu thị Lan Chi. Năm mảng hoạt động chính của Central Group Việt Nam gồm có Thời trang (Fashion Group), Điện máy Nguyễn Kim, Thương mại điện tử Nguyễn Kim, siêu thị Lan Chi và Tập đoàn quản lý khách sạn nghỉ dưỡng Centara. Chỉ cần nhìn vào hoạt động kinh doanh Central Group mới thấy được nhà đầu tư này đã mở rộng sự hiện diện ở Việt Nam một cách nhanh chóng như thế nào thông qua hoạt động M&A, tức là mua lại cổ phần của các công ty bán lẻ đã có sẵn trên thị trường mà phần lớn là công ty Việt.

Nhưng điều đáng nói là không chỉ có Central Group đang mở rộng theo cách này, trước đó là TCC Holdings mua lại Metro Cash & Carry, tập đoàn BJC của Thái-lan cũng mua lại cổ phần của tập đoàn phân phối và bán lẻ Phú Thái, và tập đoàn Aeon của Nhật Bản cũng đã mua lại cổ phần của hai chuỗi siêu thị lớn là Citimart và Fivimart. Tỷ lệ nghịch với xu hướng đó là sự teo tóp dần mòn của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước như Hapromart, Sapomart và G7 Mart. “Hiện nay công cụ để mở rộng quy mô trên thị trường bán lẻ là sáp nhập và mua bán doanh nghiệp. Điều này xảy ra hết sức thuận lợi với các doanh nghiệp bán lẻ có yếu tố nước ngoài,” ông Diệp Dũng nói.

Không thể phủ nhận rằng hệ thống bán lẻ hiện đại càng phát triển và được dẫn dắt bởi những tập đoàn bán lẻ nước ngoài lớn, người tiêu dùng càng được hưởng lợi. Nhưng mặt trái mà nhiều người lo ngại lại nằm ở chỗ khác. Theo ông Dũng, ai nắm được hệ thống bán lẻ và có thị phần lớn thì khi đó sẽ điều tiết được cấu trúc của nền sản xuất. “Chính vì vậy thời gian qua chúng ta thấy các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài ngày càng thâm nhập nhiều hơn vào thị trường bán lẻ Việt Nam”. Dù Central Group đã tuyên bố sẽ tiếp tục “duy trì mối quan hệ mật thiết với các nhà cung ứng, nông dân Việt Nam, khách hàng, nhân viên cũng như chính quyền địa phương và cộng đồng” và “đặc biệt chú trọng việc sử dụng nguồn cung ứng sản phẩm có nguồn gốc nội địa tại hệ thống siêu thị Big C,” nhưng có lẽ điều mà nhiều doanh nghiệp nội khác lo ngại đã đến sớm hơn dự định. Chỉ một tuần sau khi Central Group tuyên bố mua thành công Big C Việt Nam, các doanh nghiệp kinh doanh thủy sản đã đồng loạt lên tiếng phản đối và rút hàng khỏi Big C do nhà bán lẻ này đòi chiết khấu hàng cao tới 25%, trong khi các nhà sản xuất cho rằng 10% đã vượt quá sức chịu đựng.

Siêu thị Big C.

Trước những áp lực đó, nhiều doanh nghiệp bán lẻ trong nước như Saigon Co.op đã đề nghị Chính phủ phải có biện pháp hạn chế sự mở rộng của các hãng bán lẻ nước ngoài ở Việt Nam, và thúc đẩy doanh nghiệp bán lẻ trong nước. Nhưng hạn chế bằng cách nào là một câu hỏi lớn. Thực tế ngay sau khi thị trường bán lẻ được mở cho doanh nghiệp nước ngoài năm 2009 theo cam kết WTO, một rào cản khác được lập ra với quy định “Kiểm tra nhu cầu kinh tế” (ENT) đối với các doanh nghiệp bán lẻ khi xin phép thành lập một điểm bán lẻ. Nói một cách khác là chính quyền địa phương sẽ xem xét nhu cầu thị trường thực tế tại khu vực đó có cần thêm một siêu thị nữa hay không rồi mới quyết định cấp phép. Đây thực chất là biện pháp bảo hộ các nhà bán lẻ trong nước và hạn chế sự mở rộng của các nhà bán lẻ nước ngoài. Nhưng sự lớn mạnh của các thương hiệu bán lẻ nước ngoài trên khắp cả nước từ năm 2009 đến nay cho thấy dường như biện pháp bảo hộ này không còn hiệu quả, hoặc không được áp dụng. Ông Huỳnh Văn Minh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh, thậm chí còn cho rằng quy định ENT chưa cụ thể và “chưa phải là một khung ENT ở cấp độ toàn quốc, mỗi địa phương áp dụng ENT một kiểu”. Do vậy, ông Minh cho biết, các nhà bán lẻ trong nước hầu như không được hưởng chính sách bảo vệ nào trong suốt thời gian qua như tinh thần mà đoàn đàm phán WTO của Việt Nam dự tính.

Trước sự lo lắng của các doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát, kiểm tra lại hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài, cũng như quá trình cấp phép. Động thái mới nhất là Cục Quản lý cạnh tranh đã yêu cầu TCC Holdings báo cáo lại quá trình mua lại Metro Cash & Carry. Nhưng bằng cách nào để hạn chế sự mở rộng hơn nữa của doanh nghiệp bán lẻ trong thời gian tới thì vẫn là một câu hỏi để ngỏ. Chắc chắn rằng sẽ không dễ để chặn xu hướng này khi Việt Nam phải tuân thủ các cam kết quốc tế, và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước thì mãi vẫn chưa được cải thiện.

Chỉ cần nhìn vào hoạt động kinh doanh Central Group mới thấy được nhà đầu tư này đã mở rộng sự hiện diện ở Việt Nam một cách nhanh chóng như thế nào thông qua hoạt động M&A, tức là mua lại cổ phần của các công ty bán lẻ đã có sẵn trên thị trường mà phần lớn là công ty Việt.

Trong hơn 150 giấy phép kinh doanh nhượng quyền, chỉ có 5% là nhượng quyền ra nước ngoài, cho thấy doanh nghiệp Việt Nam phải đi một chặng đường dài, với tốc độ nhanh, mới có thể bắt kịp, cạnh tranh được với các thương hiệu ở tầm khu vực và thế giới (theo Forbes Việt Nam).

Có thể bạn quan tâm