Nợ công, chuyện bình thường
Nợ công là một vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau. Nợ công còn được gọi là "nợ chính phủ" hoặc "nợ quốc gia". Ða phần các quan điểm về nợ công cho rằng: Nợ công là nợ quốc gia, bao gồm cả nợ nước ngoài và nợ trong nước. Nợ của quốc doanh hay tư doanh mà Chính phủ chịu trách nhiệm hay bảo lãnh đều được tính là nợ công. Theo Luật quản lý nợ công mới được ban hành, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Theo quan niệm nói trên, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu Chính phủ (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.
Như vậy, nợ công là tổng giá trị các khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ Trung ương đến địa phương đi vay (qua nhiều hình thức: phát hành trái phiếu, vay trực tiếp; nợ trong nước và nợ nước ngoài), hoặc Chính phủ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay. Quy mô của nợ công thường được đối chiếu khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nợ công - vay nợ của Chính phủ là một cách thức huy động vốn quen thuộc trên toàn cầu. Thực tế sự phát triển của thế giới, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay cho thấy, việc vay nợ để phát triển là câu chuyện hằng ngày của mọi quốc gia. Những nền kinh tế lớn trên thế giới, kể cả nhiều nước trong nhóm G7, nhóm nền kinh tế mới nổi - BRICS..., cũng đang là những con nợ lớn. Vì thế, nhóm các nước đang phát triển, các nước nghèo trong đó có Việt Nam vay nợ để đầu tư phát triển là chuyện bình thường.
Giới hạn an toàn của nợ công?
Tuy nhiên điều đáng quan tâm đến vấn đề nợ công là làm thế nào để chủ động ở mức cao nhất trong nợ công, vay phải trả được và trả đúng hạn, đặc biệt nguồn vốn vay này phải hiệu quả góp phần thực hiện được các mục tiêu phát triển của quốc gia đặt ra.
Vì thế, nợ công bao nhiêu thì nằm trong giới hạn an toàn. Ðiều này trong thực tế có sự nhìn nhận khác nhau ở mỗi nước, không có công thức chung tuyệt đối cho nợ công của mọi nền kinh tế. Giới hạn an toàn trong nợ công của từng quốc gia tùy thuộc vào khả năng kinh tế, tài chính, hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ khi đến hạn của quốc gia đó. Ví dụ, hiện nay nợ công của Mỹ khoảng hơn 90% GDP, nợ công của Nhật khoảng 200% GDP... Song nhờ có tiềm lực kinh tế lớn, chính sách quản lý nợ công chặt chẽ, đặc biệt nợ công của Nhật chủ yếu là Chính phủ Nhật huy động vốn từ trong nước, do đó tỷ lệ nợ công cao nhưng vẫn an toàn và nằm trong sự kiểm soát, điều tiết của Chính phủ các nước này. Ngược lại, bài học nợ công và không có khả năng trả nợ dẫn đến chao đảo, khủng hoảng nền kinh tế - xã hội như Hy Lạp xảy ra hồi tháng 4-2010; tiếp theo tháng 11-2010 cơn bão nợ công lại đe dọa quốc gia Ai-len, đầu năm 2011
Bồ Ðào Nha cũng đang đứng trước những dự báo xấu về sự tác động của nợ công. Vào thời điểm hiện nay, Hy Lạp vẫn đang loay hoay với "bài toán" nợ công.
"Cơn bão" nợ công tàn phá Hy Lạp. Ðể cứu Hy Lạp, các nước trong khu vực sử dụng đồng Euro đã phải tung tiền ra giải cứu. Hiệu quả giải cứu chưa phát huy thì nay lại lấp ló nhiều nền kinh tế khác (Ai-len, Bồ Ðào Nha...) có thể rơi vào kịch bản như Hy Lạp chỉ vì vấn đề nợ công. Theo ý kiến của nhiều nhà quản lý và chuyên gia Việt Nam, giới hạn an toàn của nợ công ở Việt Nam giai đoạn hiện nay là nhỏ hơn hoặc bằng 50% tổng GDP của đất nước.
Việt Nam với vấn đề nợ công
Trong bối cảnh cơn bão nợ công đang làm chao đảo nền kinh tế nhiều quốc gia, việc này đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Theo một số nguồn tài liệu nghiên cứu, nợ công của Việt Nam hiện nay đứng thứ 44 thế giới (cũng theo các nguồn tài liệu này, đứng đầu danh sách nợ công hiện nay là Dim-ba-bu-ê với trên 300% GDP). Việt Nam là quốc gia đang phát triển ở trình độ thấp của thế giới, việc chúng ta vay nợ, vay nhiều để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết và phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam. Tuy nhiên, điều đông đảo người dân Việt Nam đang quan tâm đó là: Những đồng vốn vay nợ của Việt Nam, nhất là vay nợ nước ngoài đầu tư có hiệu quả, đúng việc, đúng mục đích chưa? Nợ công của Việt Nam chiếm tỷ lệ bao nhiêu thì nằm trong ngưỡng an toàn? Ðến kỳ đáo hạn, nhất là với các khoản nợ lớn chúng ta có trả được không? v.v.
Ðặt ra những câu hỏi băn khoăn này vì trong thực tế diễn ra gần đây cho thấy, nhiều vụ việc vay vốn nước ngoài đầu tư để thất thoát nhiều. Vay đầu tư không hiệu quả, để thất thoát nhiều thì đến kỳ đáo hạn làm sao trả nổi. Chẳng lẽ đến lúc đó lại tặc lưỡi: "Mai sau con cháu nó trả giúp mình".
Trong bề bộn những sự kiện chính trị, kinh tế, đối ngoại của đất nước đã và đang diễn ra sôi động, chúng ta thật sự vui mừng với nhiều thành tựu đạt được sau hơn 25 năm đổi mới mở cửa. Bên cạnh đó cũng không ít những vấn đề làm chúng ta lo âu. Và, đừng vì nợ công mà để xảy ra thảm kịch như một số nước trên thế giới trước kia cũng như hiện nay. Việc sử dụng nguồn vốn vay phải công khai, có kiểm toán, kiểm tra và có một chiến lược an toàn về quản lý nợ công cần được xem xét một cách nghiêm túc, khoa học. Trong chiến lược quản lý này không chỉ chú trọng đến tỷ lệ - giới hạn an toàn, mà quan trọng nhất là chú ý đến hiệu quả sử dụng các khoản vay. Ai đó đã rất đúng khi cho rằng: Quản lý nợ công không những chỉ liên quan đến lòng tin của người dân đối với nhà nước về việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, mà còn có tác động đến cuộc chiến chống tham nhũng, lãng phí, lạm phát, đồng thời còn ảnh hưởng đến cuộc sống của thế hệ mai sau.