Băng đầm Cầu Hai khởi nghĩa tháng 8/1945

Bao đời nay, đã có biết bao hành trình vượt sóng nước đầm Cầu Hai, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vậy nhưng, hào hùng và khó quên nhất là vào thời khắc lịch sử cách đây 77 năm, đúng vào ngày giữa mùa thu Cách mạng Tháng Tám 1945.
0:00 / 0:00
0:00
Đầm Cầu Hai - nơi đội vũ trang và nhân dân đã vượt đầm, đổ bộ lên tham gia cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện đường Phú Lộc vào mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đầm Cầu Hai - nơi đội vũ trang và nhân dân đã vượt đầm, đổ bộ lên tham gia cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện đường Phú Lộc vào mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

1/Đầm Cầu Hai mênh mông sóng nước, đã ngăn cách khu III của huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vào thời gian trước tháng 8/1945, bên này lần lượt là các tổng An Nông, Lương Điền và An Cư, còn phía bên kia phá của huyện Phú Lộc là tổng Diêm Trường. Tổng Diêm Trường bao gồm toàn bộ vùng khu III của Phú Lộc, nay gồm các xã Vinh Hưng, Vinh Mỹ, Vinh Hiền và Giang Hải. Đây là nơi sớm có phong trào cách mạng phát triển không chỉ ở Phú Lộc mà còn của cả tỉnh Thừa Thiên Huế.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Việt Nam, thực dân Pháp vừa tăng cường đàn áp khốc liệt phong trào cộng sản, vừa ra sức vơ vét sức người, sức của để cung cấp cho nhu cầu chiến tranh. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc và tay sai. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, Đảng bộ huyện Phú Lộc có chủ trương đi sâu vào hoạt động bí mật và xây dựng tổ chức đảng bí mật. Trong bối cảnh đó, vào năm 1941, Tổng ủy Diêm Trường được thành lập. Trong số các chi bộ thuộc Tổng ủy Diêm Trường có hai chi bộ Nghi Giang và Đơn Chế được tách ra từ Chi bộ Nghi Giang - Đơn Chế (thuộc xã Vinh Giang, nay là Giang Hải) được thành lập từ năm 1939.

Nghi Giang là chi bộ có đông đảng viên nhất. Chi bộ có ba anh em ruột là đồng chí Lê Minh, Lê Hải và Lê Cương, trong đó hai đồng chí Lê Minh và Lê Cương sau này từng là Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên. Năm 1949, đồng chí Lê Minh là Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên. Sau Hiệp định Genève, đồng chí tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, Bí thư liên tỉnh Trị Thiên Huế. Năm 1966, đồng chí làm Phó Bí thư Khu ủy Trị Thiên kiêm Bí thư Thành ủy Huế. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1968, đồng chí Lê Minh giữ chức Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy chiến dịch Mặt trận Huế.

2/Tháng 7/1942, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời, nhận thấy cơ sở cách mạng ở tổng Diêm Trường nói chung và làng Nghi Giang (xã Vinh Giang) nói riêng rất phát triển, đã chuyển về hoạt động bí mật tại đây. Từ năm 1942 đến tháng 7/1945, Tỉnh ủy lâm thời Thừa Thiên đóng trụ sở làng Nghi Giang (xã Vinh Giang, huyện Phú Lộc). Nhà ở của đồng chí Lê Minh là cơ quan ấn loát và phát hành các chỉ thị, tài liệu cách mạng của Tỉnh Đảng bộ. Các tờ báo Giết giặc, Vì nước, Vì dân của Đảng bộ Thừa Thiên Huế được in ấn ở đây. Nơi đây còn là trụ sở liên lạc, móc nối các hoạt động của Xứ ủy Trung Kỳ với các tỉnh, thành phố. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh thường xuyên về nhà đồng chí Lê Minh và ông Phan Duệ (xóm Cồn, Giang Hải) để hoạt động và chỉ đạo phong trào cách mạng. Nhà của đồng chí Lê Tự Thanh ở thôn Phụng Chánh (xã Vinh Hưng) là nơi diễn ra nhiều cuộc làm việc và gặp gỡ của các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy Thừa Thiên. Những bài giảng của đồng chí Nguyễn Chí Thanh cũng được tập hợp và in li-tô ở đây để phát hành trong toàn tỉnh.

Băng đầm Cầu Hai khởi nghĩa tháng 8/1945 ảnh 1

Một góc khu đô thị mới thuộc xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế).

Nhiều cán bộ lão thành kể cho chúng tôi nghe về Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên mở rộng hay còn gọi là Hội nghị đầm Cầu Hai lịch sử, được tổ chức vào ngày 23/5/1945. Đó là thời điểm khắp nơi ở Thừa Thiên Huế dấy lên cao trào cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Chi bộ xã Vinh Giang (nay là xã Giang Hải, huyện Phú Lộc) được giao nhiệm vụ đã huy động đò, ghe để tham gia bảo vệ hội nghị. Đặc biệt, gia đình ông Thuật ở vạn Nghi Xuân đã kết hai chiếc đò lại với nhau để làm hội trường cho hội nghị có đến 28 đại biểu này. Hội nghị quán triệt chỉ thị của Trung ương Đảng, khẳng định thời cơ đã đến, thành lập Mặt trận Việt Minh và chuẩn bị tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.

3/Gần ba tháng sau hội nghị đầm Cầu Hai, ngày 14/8/1945, nhân dịp quần chúng ở tổng Diêm Trường đi xem hát rất đông ở rạp hát cải lương Hoàng Mạnh Biên (xã Vinh Mỹ), đội tự vệ do đồng chí Nguyễn Đình Sản chỉ huy bước lên sân khấu hô hào lật đổ chính quyền cũ, được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Đã có nhiều chuyện kể về khí thế cách mạng hào hùng ở tổng Diêm Trường trong khởi nghĩa giành chính quyền vào mùa thu tháng Tám cách nay 77 năm. Đó là việc đội tự vệ của tổng Diêm Trường đã hai lần bắt giữ và tịch thu các đò thóc của Nhật ở chợ Hôm và chợ Phụng Chánh (xã Vinh Hưng) để chia cho dân nghèo. Đó cũng là hình ảnh đội trưởng Nguyễn Đình Sản đầy kiêu hãnh cưỡi con ngựa tịch thu chỉ huy đội tự vệ lùng bắt bọn tay sai địch ở toàn tổng Diêm Trường, làm nức lòng người dân.

Đáng nói là, lần đầu tiên, đội vũ trang và nhân dân tổng Diêm Trường đã có chuyến vượt đầm Cầu Hai để cùng nhân dân các tổng An Nông, Lương Điền và An Cư khởi nghĩa giành chính quyền ở Huyện đường Phú Lộc. Đoàn gồm hai cánh, một cánh do đồng chí Nguyễn Đình Sản phụ trách, kéo về chợ Vinh Hòa (xã Vinh Hiền) và các bến đò Nghi Giang, Chùa Ma (xã Giang Hải), vượt đầm Cầu Hai, đổ bộ lên đèo Phước Tượng ở bến đò Công Bộ. Một cánh do đồng chí Lê Cam chỉ huy, vượt đầm Cầu Hai đổ bộ lên phía bắc huyện Phú Lộc. Cả hai chuyến vượt đầm Cầu Hai đều thành công đúng như mong đợi.

Tôi đã có dịp ghé thăm bến đò Công Bộ ngày nào, nơi chân đèo Phước Tượng. Nhiều vị bô lão ở đây đã xúc động kể với tôi rằng, nhận được tin báo là nơi tập kết và hoạt động phối hợp với đoàn từ An Cư ra, người dân Lộc Trì và vùng Rẫm hầu như suốt đêm không ngủ. Còn ở phía bên kia, công tác chuẩn bị vượt đầm cũng diễn ra hết sức khẩn trương. Riêng ngư dân ở vạn Nghi Giang đã tập hợp được đến 50 chiếc đò để đưa người dân sang Phước Tượng tham gia giành chính quyền. Mỗi chiếc đò đều cắm cờ búa liềm và cờ đỏ sao vàng. Đội tự vệ mang theo súng ống và giáo mác, còn người dân thì vũ trang bằng gậy gộc. Tất cả cùng lên đường. Đoàn người vượt đầm mênh mông sóng nước. Cờ hồng trước gió tung bay. Khí thế như thác đổ, sóng dồn.

Cuối cùng thì giờ G cũng đã tới, ngày 19/8/1945, các đoàn từ tổng Diêm Trường đã vượt đầm phá sang Cầu Hai. Ở phía bắc, họ đổ bộ vào vùng Truồi để hợp cùng đoàn của người dân hai tổng An Nông và Lương Điền. Còn ở phía nam, hòa cùng người dân tại chỗ và từ An Cư ra. Cả hai cùng tiến bước, như hai gọng kìm, nhằm hướng lên Huyện đường Cầu Hai. Họ đi giữa rừng người tề tựu đón chào ở hai bên quốc lộ 1A. Tác phẩm “Tổng khởi nghĩa tháng tám năm 1945” của Viện Lịch sử Đảng viết: “Ở huyện Phú Lộc, đông đảo quần chúng trong huyện mang vũ khí thô sơ, băng cờ, khẩu hiệu từ An Cư ra, An Nông và Lương Điền về, từ Diêm Trường vượt đầm Cầu Hai sang khởi nghĩa ở huyện lỵ, lập chính quyền nhân dân cách mạng”. Tôi đọc lại lịch sử và không kìm được xúc động.

Ngay sau khi giành được chính quyền, từ Huyện đường Phú Lộc, đội vũ trang và nhân dân tổng Diêm Trường cùng với toàn huyện Phú Lộc kéo lên Kinh thành Huế theo nhịp bước hào hùng: “Tháng 8 vùng lên Huế của ta/Quảng, Phong ơi! Hương Thủy, Hương Trà/Phú Vang, Phú Lộc đò lên Huế/Đỏ ngập dòng sông rộn tiếng ca” (thơ Tố Hữu) . Để rồi, đúng 16 giờ ngày 23/8/1945, tại sân vận động Huế, họ hòa cùng hàng vạn nhân dân Thừa Thiên Huế đã tập trung hàng ngũ chỉnh tề dưới rừng cờ sao vàng phấp phới, tiếng hoan hô vang dội cả một góc trời khi Ủy ban khởi nghĩa tiến vào lễ đài. Nhà thơ Tố Hữu là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên đọc diễn văn nêu rõ tầm vóc, ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa và tuyên bố từ nay chính quyền về tay nhân dân.

4/Đúng vào dịp 62 năm sau Cách mạng Tháng 8/1945, cầu Tư Hiền lịch sử bắc qua đầm Cầu Hai - phá Tam Giang được khánh thành. Trước đó các cầu Thuận An và Trường Hà xuyên phá Tam Giang cũng đã được xây dựng. Đầm Cầu Hai - phá Tam Giang không còn ngăn chia đôi bờ Phú Lộc và tên gọi Diêm Trường cũng đã đi vào lịch sử. Mỗi lần có dịp qua cầu, vượt đầm Cầu Hai, tôi lại nhớ đến dòng ghi chép kia của Viện Lịch sử Đảng và những câu thơ của Tố Hữu cô đọng và hào hùng như một chuyện kể hay thước phim sinh động và đã mường tượng những con đò rợp cờ và tiếng người hò reo giữa sóng nước mênh mang.