Duyên trời định
Xuất thân từ một chiến binh từng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, rồi xuất ngũ, về làm đội trưởng sản xuất tại quê hương Quỳnh Phụ, Thái Bình nhưng không thoát nghèo. Với quyết tâm đổi đời, anh Ðường lại lóc cóc theo người anh lên tận Mường Tè (Lai Châu cũ) sống với non bồng nước nhược, để chuyển sang nghề làm cầu, đường. Và rồi, trong vụ án Sơn Xồm bị "quỵt" hết cả vốn lẫn lãi do ông chủ này bị bắt, anh Nguyễn Hải Ðường phải bán suất đất tại thị xã Ðiện Biên (nay là thành phố) với giá 18 triệu đồng (mảnh đất hiện có giá ngót hai tỷ đồng) để trả nợ tiền lương, tiền ăn của công nhân, nợ nguyên vật liệu... Vẫn chưa đủ, anh Ðường tha người vợ liễu yếu đào tơ ra đèo Tằng Quái nhận trải nhựa, xây cống rãnh thuê từ km 45 - km 47, để hoàn tất khoản "tai nạn" lớn nhất của đời mình. Anh đã từng ngửa cổ lên trời mà thề, cho dù có phải đi ăn mày cũng không bao giờ dính dáng đến nghề cai thầu xây dựng nữa.
Ðể rồi từ con đèo quái cổ này, những đêm sương bưng đặc quánh, nằm run trong chiếc lán chụp vừa một người nằm, anh vóng tai lên nghe những bước chân giẫm nát cả sương đêm. Sáng ngửa mặt nhìn lên núi dựng, đất trọc và mây trắng cứ quyện vào nhau khăng khít đến nao lòng. Vậy là anh "sinh sự". Chẳng bàn bạc với ai, đêm đêm anh chong đèn viết viết, xóa xóa, cuối cùng thì mấy lá đơn, cái xin đăng ký hộ khẩu, cái thì xin nhận đất trồng rừng, lập trang trại... cũng được gửi đi. Ông Trưởng bản Thái; ông Chủ tịch xã Mường Ðăng, ông Chủ tịch huyện Tuần Giáo và cả ông Trưởng phòng Nông nghiệp - Ðịa chính huyện (cũ) cứ tròn mắt, kinh ngạc thay cho cái anh "chủ thầu" không được mấy bình thường này: "Khổ lắm, cứ làm như mỗi mình anh có chí không bằng. Người ta ở đây bao đời rồi, đã ai dám sống trên cái đỉnh đèo ma quái và ràn rạt cướp bóc ấy đâu". Nghe xong, anh Ðường cười: "Nó là cái duyên, xin cứ chiều tôi đi, một lần này thôi"...
Mảnh đất dữ, và...
Thấm thoắt đã 15 năm. Ngồi nhấm nháp chén trà mộc trong lãng đãng khói mây, anh Ðường nói: "Cuộc đời tôi có hai cuộc "viễn chinh" lớn: Cầm súng đánh giặc thì thắng. Nhưng, cầm dao xây thì suýt nữa không chỉ một mình mà đẩy cả vợ con và gia đình xuống chín tầng địa ngục". Cuộc viễn chinh thứ ba của anh, nho nhỏ thôi, là cầm cuốc vạc vào đất đá trên đỉnh Tằng Quái, công việc nghe thì bình thường song cũng đầy hiểm nguy, gian khó.
Vợ chồng anh Ðường quẳng ba đứa nhỏ cho ông bà ngoại ở thành phố Ðiện Biên rồi ra đây nai lưng phát rẫy, trồng bốn ha cả ngô và sắn. Cứ thế, sáng ra, tối như bịt mắt mới về lán, vợ lao đầu vào bếp, thì chồng lóc cóc lội bộ gần hai km xuống dốc núi dựng ngược để vác can nước vừa để ăn, vừa cho vợ tắm... Với ba triệu đồng vay mượn, anh Ðường, chị Tuyết cứ thế gột vạt. Sáng mua nông lâm sản của những người hái lượm, chiều đổ cho xe chạy qua cũng đủ cân gạo, mấy con cá khô, nhúm muối, phao dầu và mấy viên thuốc tây. Chẳng có xe máy, đành nhờ cả mấy người dân tộc tốt bụng, tiện thể xuống chợ cho quá giang mấy món hàng nhẹ. Mất ba năm cơ cực như thế để có mái ngói đầu tiên với hy vọng gom góp những giọt nước trời, đỡ đần phần nào vất vả. Rồi lại mất ba năm nữa, được đồng nào xây bể nước đồng ấy, cái nọ tựa vào cái kia, cái bé chồng lên cái lớn, để đến giờ lên tới 140m3 bể đựng nước mưa, tha hồ ăn uống, tắm giặt.
Tôi biết anh Ðường từ năm 2000. Anh từng gửi gắm những việc lớn vào cái kho 42 tấn chít khô ở sau nhà. Ai ngờ, đúng 9-1 (âm), năm 2001, kẻ ác tâm nào đã "mừng tuổi" vợ chồng anh một mồi lửa, phi tang giấc mơ mọn vặt và tội nghiệp của anh vào trời đất. Tay trắng đã khó khăn, nhưng khó khăn hơn cả là van nài bà xã ở lại, chiến đấu với đá, với gió ngày càng lồng lộng trên đỉnh đèo ma quái và cướp bóc này...
... chỉ dung những ai có lòng can đảm
Một lần nữa, chập chững vào đời ở lứa tuổi 43, anh Ðường phải giấu những giọt nước mắt vào tường trước khi vợ anh nhìn thấy. Mười ha đất được giao trên những triền núi trọc, gồm năm ha thông, xoan; hai ha cây ăn quả; hai ha tre và một ha cà-phê mấy năm trời tranh thủ cấy cắm, mầu xanh đã dần đủ sức níu giữ lòng người. Ðất trồng rừng đã không cho xen màu nữa, cái đói, cái khó túc trực từng ngày trong nhà. May mà còn ít ngô, sắn sót lại. Vài chục đầu lợn mỗi năm cũng cho anh xuất chuồng vài lứa. Có đồng ra đồng vào, anh bắt đầu thực hiện giấc mơ trang trại xen canh trồng trọt và chăn nuôi. Cả mua cả vay, anh mang về tám con dê và chín con bò. Hai năm sau, đàn dê lên hơn 30 con thì phá sản vì trộm cắp. Chỉ một thời gian ngắn, trong chuồng còn độc một con dê đực. Ðàn bò thì khác, từ năm 2003 đến nay đã lên tới ngót 100 con, anh chị đã bán đi hơn 50 con rồi, còn hơn 40 con, trong đó 25 bò nái. Hằng năm, đàn bò gia tăng hơn 20 con bê, giúp anh đủ nuôi hàng chục công nhân chăn bò, làm rừng, vườn và phơi sấy nông sản, nâng cấp cuộc sống.
Nếu nói đến máu chăn nuôi, thì phải kể chuyện anh Ðường thuần dưỡng nhím và rắn. Gần chục năm trước, đêm đêm, từng đoàn thợ săn gồng gánh thú rừng ngang qua nhà anh, đón xe bán về các nhà hàng ở Ðiện Biên, hay ở mãi những miền xuôi lơ lắc. Anh Ðường để ý thấy có nhiều con còn sống, vậy là anh nảy ra ý định thuần dưỡng nhím và rắn. Hàng trăm con nhím được anh mua gom về, rồi xây chuồng, rồi bỏ cả ăn ngủ để chăm chút. Nhưng rồi chẳng có thứ gì dễ dàng đối với người không biết, sau một thời gian ngắn, chúng tự xé xác nhau ăn thịt, tuyệt thực, bệnh tật... cuối cùng, còn 54 con, anh phải bán vội cho những người có kinh nghiệm nuôi.
Với con rắn thì khác. Ít nhiều anh cũng có đôi chút kinh nghiệm do đã được tham quan, và được biết thêm từ sách báo. Anh thu gom của thợ săn với hy vọng sẽ thành công. Quả thật, nuôi rắn không khó, và còn khá nhàn nhã, và anh có thể phất lên từ nghề nuôi rắn, nếu như không có một chuyện xảy ra mà đến giờ anh Ðường vẫn "hồn xiêu phách tán". Vào một ngày đẹp trời, một thợ săn người Thái, cách nhà anh hai km mang bán cho một con rắn hổ mang chì nặng 3,5 kg. Tối hôm đó, nhìn thấy con rắn khác nặng tới bốn kg, đen trũi như cây mía tím, theo bạn tình về nằm quanh ro ngay chái phòng khách. Khi anh bắt nó thả vào chuồng với con rắn mới mua, hai con quấn lấy nhau như sợi dây thừng, cả ngày không buông. Lại một lần khác, một tốp thợ xẻ đập chết con rắn hổ chúa cách đó hơn chục km. Anh mua và đem về nhà mình. Ðêm hôm đó, một con rắn khác, to cỡ ấy, lần theo hơi bạn đời, bò về, leo lên sàn, chui vào gầm giường nằm phục, khiến cả nhà chạy tan tác. Sau chuyện con hổ mang chì về nhà anh không lâu, anh mua một con rắn hổ trâu khác. Cũng ngay đêm ấy, chị Tuyết bước chân vào giường ngủ, con rắn còn lại lặng lẽ như một gã sát thủ, quấn lấy chân chị... Từ đó anh Ðường thôi nghề rắn. Nó giống như chuyện, thấy người ta làm mỏ đá giàu nhanh như bão, anh Ðường cũng làm mỏ đá. Có đến hai lần bị lật xe, chị Tuyết mới tá hỏa, bắt anh về làm nương rẫy...
Thành quả không bao giờ muộn
Lúc lên định cư trên đỉnh núi này đã có người bảo anh điên. Giờ anh làm nhà kiên cố, gắn đời mình vào với mây với gió, người ta càng bảo anh chị điên hơn. Dưới thị trấn có đất, có ao. Trong thành phố, bố mẹ, anh em vẫn chong chong chờ đợi, vậy mà lại buộc đời mình vào với đỉnh núi hoang hoắt đến sởn da này. Từ hai bàn tay trắng, sau 15 năm vật lộn với nắng, gió quay quắt và thậm chí cả lòng người xấu tính, cuối cùng anh Ðường cũng có khối tài sản không nhỏ, gồm cả nhà, mười ha rừng, cây ăn quả, và gần ba nghìn m2 vừa vườn, vừa ao dưới thị trấn huyện Mường Ảng.
Chỉ nói đến kỳ công làm giàu của anh Ðường thôi thì chưa đủ. Ở dưới thị trấn, ai cũng biết công cuộc học chữ của ba cháu bé nhà anh. Với tổng cộng tám năm theo học ở đây, ba cháu thường xuyên học hai ca vì khác trường, khác lớp. Tám năm ấy, định mức anh chị dùng xe máy đèo con đi học, đón con về với hàng trăm nghìn km đường đất - một kỳ công không thể kể bằng lời. Anh chị nói, trừ những ngày nghỉ hè, còn lại tám năm trời không được phép ốm. Sự học của con cái không thể vì cơ cực sinh nhai mà sao nhãng. Giờ đây, cháu đầu nhà anh đã tốt nghiệp Cao đẳng Hàng hải Hải Phòng và công tác tại Công ty Vận tải hàng hóa đường thủy Quảng Ninh. Cháu thứ hai vừa tốt nghiệp Cao đẳng Truyền hình. Cháu út đang học năm thứ nhất Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. Nói đến các con, anh Ðường buột miệng: "Thật cảm ơn ông trời, ba đứa con chẳng đứa nào phụ công dưỡng dục của cha mẹ!".
Chiếc máy nổ xả khói và tiếng gầm khục khoặc vào không trung đêm Tằng Quái. Từ ngày có chút của nả, ngôi nhà giả sàn trên mù mịt mây bay đã có tí thứ ánh sáng quý phái và văn minh. Nhưng trên đỉnh đèo này, mỗi tối, nó chỉ được phép sáng một vài giờ rồi thì cả phần còn lại của đêm sẽ trở về với bóng tối. Tôi nhìn treo vào đường dây 110 KV chạy tắt núi, cách đỉnh đèo hơn hai km, mà thèm có một phép mầu nào đó, hạ thế một đường dây để cho ngôi nhà u mặc trong mây kia được quanh năm phát sáng. Anh Ðường cười: "Chẳng lâu nữa đâu, tôi chết đi, các con tôi không quay về đây nữa, chúng sẽ nhượng đỉnh đèo lại cho các đại gia vẫn đang theo đuổi, để xây dựng khu nghỉ mát. Lúc ấy, con đèo này lại chẳng kiếm đâu ra ban đêm nữa ấy chứ".
Vâng, mong rằng, từ hối hả đôi tay và sôi sục con tim, ở cái nơi nhiều năm liền được mệnh danh là con đèo ma quái, cung đường ma quái này, sẽ trở thành chốn ru vỗ cảm giác yên bình cho những ai thực sự yêu mến nó.