Trở lại Na Con Phen

Rời “ốc đảo” Hữu Khuông, vẫn còn nhiều chuyện chưa kể hết về Na Con Phen và những trầm tích văn hóa vùng sông Nậm Nơn đã chìm dưới hồ thủy điện Bản Vẽ. Chiếc ca-nô ngược trở ra bến thượng lưu như nặng hơn lúc ngược lên. Nặng với ký ức măng đắng nơi bản xa heo hút đang cố bứt phá vươn lên với mong ước đổi đời.

Bản Na Con Phen, xã Hữu Khuông, huyện Tương Dương (Nghệ An).
Bản Na Con Phen, xã Hữu Khuông, huyện Tương Dương (Nghệ An).

Ký ức măng đắng

Từ bến thượng lưu lòng hồ Thủy điện Bản Vẽ, chiếc ca-nô công vụ của Công ty Thủy điện Bản Vẽ rẽ nước đưa chúng tôi ngược lên phía thượng nguồn. Chuyến theo chân lãnh đạo và cán bộ  Công ty Thủy điện Bản Vẽ lên Hữu Khuông, một xã gần cực Tây của huyện miền núi Tương Dương, tỉnh Nghệ An tặng quà nhân ngày khai trường đưa tôi trở lại ký ức của 30 năm trước khi làm ông giáo “cắm bản” nơi miệt rừng hoang heo hút này. Bấm đồng hồ chỉ mất gần 50 phút ca-nô đã cập bến vào bản Na Con Phen, trung tâm xã.

Gần 30 năm trước, khi chưa xây dựng thủy điện, từ trung tâm huyện lên các xã vùng dọc sông Nậm Nơn chỉ có hai cách. Nếu chọn đi đường thủy, chỉ có những người bản lĩnh mới đủ can đảm chèo chống thuyền đuôi én (một loại phương tiện đường thủy do đồng bào tự đóng giống thuyền độc mộc, hồi đó chưa thịnh hành thuyền gắn máy như bây giờ) để ngược. Hoặc xuôi về bằng những chiếc bè mảng vượt qua hàng chục thác ghềnh. Nếu đi bộ phải trèo đèo lội suối, tính đến hàng ngày đường. Đến xã chót cùng Luân Mai, Mai Sơn, đám giáo viên cắm bản chúng tôi phải nhích nhắc đến những bảy ngày với đôi chân rộp phồng đỏ mọng nước. Mỗi lần lên nhìn lại quãng đường, các thầy, cô không muốn về xuôi nữa và phải lấy hết can đảm nếu như không có tình yêu với lũ trẻ để trở lại miền thâm u, heo hút ấy mỗi khi về xuôi nghỉ hè, Tết. Ngày ấy, có thầy, cô đã phải ngậm ngùi gạt lệ chia tay dù đó là “nghề cao quý”…

Gần 30 năm vật đổi sao dời! Ngược lòng hồ, nhìn nước, nhìn mây cố sục tìm trong ký ức dấu xưa những tên bản, tên mường: Bản Kom, Pủng, Tạ Xiêng, Lạp, Nòng, Muộng, Hiển, Xiềng Lằm, Chà Coong... và những thác Cành Tạng, Tạc Pha, Nhạn Mà, Nhạn Tạ Xiêng, Nhạn Pá, Nhan Nhinh... chỉ thấy mênh mông nước. Những bản làng, những ghềnh thác hiểm, eo núi  ấy giờ đã chìm sâu ở khoảng nào trong mênh mông nước! 

Vừa cập bến đã leo dốc, con dốc dài đến bản đầu tiên Pủng Bón gặp ngay ngôi trường tiểu học Hữu Khuông dành cho hai điểm trường Na Con Phen và Pủng Bón mới sát nhập, được các nhà hảo tâm gom góp hỗ trợ xây dựng khá khang trang. Na Con Phen bây giờ là trung tâm xã. Con đường được mở từ xã Nhôn Mai cho ô-tô hai cầu từ quốc lộ 16 (đường phía tây Nghệ An) xuống Hữu Khuông đến tận Na Con Phen, bản làng người Khơ Mú heo hút ngày nào. 

Ngồi tại bản Na Con Phen đúng ngày khai trường, lại nhớ lần từ bản Xiền Lằm, trung tâm xã Hữu Khuông hồi đó đi suốt một giờ đồng hồ lội khe, vượt qua những cánh rừng lát hoa bạt ngàn vào thăm bản Na Con Phen, thủ phủ của loài măng đắng vùng dọc sông Nậm Nơn. Ngồi nhâm nhi rượu với măng đắng, lúc đầu chưa quen đắng nghét, sau quen dần, nhá miếng măng mà cứ ngòn ngọt. Ngày ấy rừng măng đắng nhiều nhất nằm ở đầu nguồn khe Chà Lạt. Bà con người Khơ Mú hai bản Na Con Phen và Tôồng Hốc nhờ có thứ sản vật này mà có  ít tiền mua gạo, dầu thắp... 

Những bản ở tận ngọn khe Chà Lạt có lẽ nằm trong số nghèo khổ nhất xã Hữu Khuông. Già bản Na Con Phen Moong Văn Thọ hồi đó có anh con trai là Moong Thanh Nghệ, có lẽ là người Khơ Mú đầu tiên ở Việt Nam có trình độ đại học ở thập kỷ những năm 90 thế kỷ trước. Lưa thưa sau những tán rừng, chênh vênh trên sườn núi là những căn nhà sàn như những căn chòi, mái tranh lơ phơ. Trước khi vào bản người Khơ Mú, người ta đều dặn tôi chớ có mon men vào đặt đồ đạc hay vật gì ở gian bếp trong. Nghe dặn vậy nên khi bước lên nhà của già Thọ, ngôi nhà được gọi là khang trang nhất bản mà cứ len lén ngồi ở gian ngoài mà không dám đi vào phía trong. 

Bản Na Con Phen lúc đó có 21 hộ, 138 nhân khẩu, nhưng chính thức chỉ có 16 hộ còn “đóng đô” ở bản, còn lại ở hẳn ngoài rẫy. Bản làng vắng tanh. Nhà giàu nhất có lẽ chỉ có già bản Moong Văn Thọ, với gia tài gần 10 con trâu bò. Rời Na Con Phen sẽ sang ngả khác, nơi 37 hộ người Thái bản Pủng Bón. Hồi đó, Hữu Khuông được biết đến là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất huyện 93,86%. Vì không có đường, không có chợ nên không có giao thương, trao đổi buôn bán, hầu hết bà con chủ yếu tự cung tự cấp... 

Trở lại Na Con Phen -0
Đồng bào các dân tộc xã Hữu Khuông tích cực mở đường về bản. 

Đổi thay nơi “ốc đảo” 

Trong lúc các xã nằm theo dọc sông Nậm Nơn: Kim Đa, Kim Tiến, Hữu Dương của huyện phải di dời nhường mảnh đất cha ông sinh sống cho thủy điện phát sáng để di dời về tái định cư huyện Thanh Chương, thì các xã Mai Sơn, Luân Mai, Nhôn Mai và Hữu Khuông được di vén trong lòng hồ. Xã Hữu Khuông hiện nay, nằm biệt lập giữa núi rừng, ven lòng hồ thủy điện Bản Vẽ xanh ngắt. Xã có 554 hộ phân bố ở bảy bản: bản Xàn, Huồi Cọ, Na Con Phen, Pủng Bón, Tồng Hốc, Huồi Pủng, Chà Lâng với ba dân tộc anh em Thái, H’Mông, Khơ Mú chung sống. 

Ngồi tiếp tôi tại Na Con Phen hôm nay là một nữ cán bộ, cô Pịt Thị Thỏa, Phó bí thư Thường trực đảng ủy xã Hữu Khuông, người con của bản Na Con Phen. Ngày tôi lặn lội đến vùng bản Na Con Phen, Tồng Hốc, Thỏa chưa ra đời. Thỏa tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, nhiệm kỳ trước là Phó Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ xã. 

Núi non bao bọc, ở giữa là lòng hồ mênh mông, Hữu Khuông trở thành một “ốc đảo” gần như tách biệt các xã trong vùng. Nguồn thu nhập chính của người dân vẫn chưa có gì khác ngoài nương rẫy và chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà... nhỏ lẻ, chủ yếu cuộc sống còn tự cung tự cấp. Địa hình dốc, kỹ thuật canh tác lạc hậu, chăn nuôi thì chỉ theo cách truyền thống nhất là... thả rông. Dù vậy, so trước đây, đời sống ở Hữu Khuông đã có nhiều thay đổi. Con đường bê-tông nối quốc lộ 16 ô-tô đã vào đến trung tâm xã, bản làng ánh điện lung linh như sao sa giữa đại ngàn. Nhiều phòng học được kiên cố hóa, sóng điện thoại di động đã phủ gần khắp các bản trên địa bàn, nơi ăn, chốn ở của các em học sinh bán trú đã được xây dựng khang trang... Cuộc sống của các thầy cô “cắm bản” đã đỡ vất vả.

Được biết, thu ngân sách trên địa bàn 5 năm qua đạt 246,83 triệu đồng, tăng 24,6% so 5 năm trước, thu nhập bình quân đầu người đạt 16 triệu đồng, tăng 16%. Tổng sản lượng lương thực đạt 9.687 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 440 kg. Tổng đàn gia súc đạt 3.726 con, gia cầm 8.883 con, bình quân 67 kg/người/ năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 63,47%. Qua 5 năm 2015 - 2020, xã Hữu Khuông đã bước đầu tập trung xây dựng kế hoạch và triển khai một số chương trình như: Khai hoang ruộng nước, mở rộng diện tích ao cá, tập trung chỉ đạo trồng rừng, trồng cỏ, sắp xếp lại chuồng trại chăn nuôi, công trình vệ sinh gia đình... 

Hiện, nhiều tuyến đường của các  bản ở Huồi Cọ, Chà Lâng, Con Phen đã được bê-tông hóa nhờ nhân dân đóng góp công sức, tiền của. Đồng bào dân tộc H’Mông ở bản Chà Lâng đã bỏ hủ tục lạc hậu, làm nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Tất cả các hộ gia đình ở xã Hữu Khuông bây giờ đều có chuồng trại chăn nuôi đúng quy định về vệ sinh môi trường. Điều đáng mừng là nhân dân tích cực hưởng ứng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào tự quản, tự hòa giải. Hữu Khuông luôn giữ được phong trào toàn dân tham gia giao thông nông thôn hàng năm.

Còn nhiều chuyện chưa kể hết về Na Con Phen, về Hữu Khuông và những trầm tích văn hóa vùng sông Nậm Nơn đã chìm dưới hồ thủy điện Bản Vẽ. Chiếc ca-nô ngược trở ra bến thượng lưu như nặng hơn lúc ngược lên. Nặng lòng với ký ức măng đắng nơi bản xa heo hút Na Con Phen đang nỗ lực bứt phá khỏi những khó khăn, vất vả.