Tăng cường tính minh bạch cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp

Báo cáo Chính phủ về việc triển khai nhiệm vụ quản lý, giám sát và thanh tra, kiểm tra việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) mới đây của Bộ Tài chính cho biết, trên thị trường sơ cấp, năm 2021 có tổng khối lượng phát hành tăng tới 38,8% so năm 2020 với 639.766 tỷ đồng, chủ yếu là trái phiếu phát hành riêng lẻ. Tổng khối lượng TPDN chào bán ra công chúng trong năm 2021 đạt 34.146 tỷ đồng, tăng 11,8% so năm 2020.

Nhiều doanh nghiệp bất động sản sử dụng nguồn vốn trái phiếu để phát triển dự án.
Nhiều doanh nghiệp bất động sản sử dụng nguồn vốn trái phiếu để phát triển dự án.

Bộ Tài chính cũng cho biết, đến cuối năm 2021, quy mô thị trường TPDN tương đương 18,2% GDP, tăng 42,4% so cuối năm 2020 (17,11% GDP), trong đó quy mô thị trường TPDN riêng lẻ đạt 16,84% GDP, tăng 40,5% so năm 2020. Bước sang các tháng đầu năm 2022, khối lượng TPDN phát hành riêng lẻ đạt 104.752 tỷ đồng, gấp ba lần so cùng kỳ năm 2021. Khối lượng phát hành tập trung chủ yếu trong tháng 1, trước thời điểm quy định việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán TPDN của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực và ngay lập tức, trong các tháng tiếp theo, khối lượng phát hành TPDN riêng lẻ đã giảm dần.

“Tiếp tay” phát hành trái phiếu sai luật

Báo cáo của Bộ Tài chính cũng chỉ ra những vấn đề nổi cộm về các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Xét về loại hình doanh nghiệp thì các công ty đại chúng chiếm 47,17% tổng khối lượng phát hành; công ty cổ phần chưa đại chúng chiếm 41,79% và công ty TNHH chiếm 11,04%. Xét về lĩnh vực hoạt động, các TCTD có lượng phát hành lớn nhất, chiếm tới 36,18% tổng khối lượng phát hành. Doanh nghiệp bất động sản (BĐS) chiếm 33,16%; các doanh nghiệp thương mại dịch vụ, sản xuất và xây dựng chiếm lần lượt 5,5%, 4,59% và 3,19% tổng khối lượng phát hành.

Theo đánh giá của Bộ Tài chính, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu chủ yếu là nhằm tăng vốn hoạt động, chiếm 44,49% tổng khối lượng trái phiếu phát hành. Có 19,10% số trái phiếu phát hành để thực hiện dự án, 4,52% được sử dụng cho mục đích cơ cấu lại nguồn vốn; 29,29% khối lượng trái phiếu phát hành được sử dụng kết hợp các mục đích. Năm 2022, các doanh nghiệp BĐS và xây dựng là hai nhóm phát hành nhiều nhất, chiếm lần lượt 45,1% và 22,1%. Các doanh nghiệp thương mại dịch vụ chiếm 9,5%, doanh nghiệp sản xuất chiếm 9,5%.

Trong khi đó, năm 2021 trái phiếu do các doanh nghiệp bất động sản, xây dựng phát hành lại có tới 88,2% khối lượng phát hành có tài sản bảo đảm hoặc bảo lãnh thanh toán và tài sản bảo đảm chủ yếu là BĐS, các chương trình, dự án. Theo đó, mặc dù tỷ lệ trái phiếu có tài sản bảo đảm cao nhưng chất lượng tài sản bảo đảm chủ yếu là các dự án, tài sản hình thành trong tương lai hoặc cổ phiếu của các doanh nghiệp trong lĩnh vực BĐS. Trường hợp thị trường BĐS khó khăn, giá trị tài sản bảo đảm có thể không đủ để thanh toán gốc, lãi trái phiếu.

Đánh giá về nhà đầu tư, Bộ Tài chính chỉ rõ, trên thị trường sơ cấp năm 2021, các nhà đầu tư trong nước mua 98,55% khối lượng TPDN phát hành riêng lẻ, nhà đầu tư nước ngoài chiếm 1,45%. Các TCTD và công ty chứng khoán là nhà đầu tư chính, mua lần lượt 37,87% và 34,47% tổng khối lượng phát hành; các nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp mua 5,39%. Các TCTD chủ yếu mua trái phiếu do các TCTD khác và doanh nghiệp bất động sản phát hành. TCTD là nhà đầu tư chính của trái phiếu BĐS, xây dựng và sản xuất, chiếm lần lượt 41,26%, 40,99% và 55,46% khối lượng phát hành của mỗi nhóm. Nhà đầu tư cá nhân (trên thị trường sơ cấp) chủ yếu mua trái phiếu của doanh nghiệp BĐS, công ty chứng khoán và TCTD. Các tháng đầu năm 2022, nhà đầu tư chính mua TPDN riêng lẻ là các TCTD, chiếm 41,5% tổng khối lượng phát hành, các công ty chứng khoán mua 18,4%; nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp mua 9,5%.

Trên thị trường thứ cấp, tỷ lệ mua của các TCTD và nhà đầu tư cá nhân cao hơn trên thị trường sơ cấp. Cuối năm 2021, tỷ trọng nắm giữ của các TCTD là 61,57% tổng khối lượng trái phiếu lưu ký đã phát hành trong năm. Như vậy, phần lớn trái phiếu được các công ty chứng khoán mua trên thị trường sơ cấp và phân phối lại cho TCTD, nhà đầu tư cá nhân và các tổ chức khác. TCTD và nhà đầu tư cá nhân là người mua chính TPDN phát hành trong năm 2021 chiếm trên 80%, khoảng 20% còn lại là do các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm và các tổ chức khác mua. Tính chung toàn thị trường TPDN riêng lẻ, các TCTD nắm giữ 44,46% tổng khối lượng trái phiếu lưu ký và có khoảng 30% do các tổ chức phi tài chính, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, doanh nghiệp bảo hiểm nắm giữ. Việc có mặt doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường TPDN đã được Bộ Tài chính ghi nhận.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giao dịch

Với thực tế trên, đánh giá chung về tình hình thị trường TPDN, Bộ Tài chính cho rằng, trong năm 2021, thị trường TPDN vẫn tiếp tục là kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp. Mặc dù nền kinh tế chịu ảnh hưởng lớn của dịch bệnh, các doanh nghiệp vẫn lựa chọn kênh phát hành trái phiếu để huy động vốn với khối lượng phát hành tăng 40,36% so năm 2020. Khối lượng đăng ký chào bán TPDN ra công chúng năm 2021 tăng cao nhất từ trước tới nay, đạt 51.125 tỷ đồng, tăng 51,8% so năm 2020; khối lượng phát hành thực tế tăng 11,8%, chiếm 5,3% tổng khối lượng phát hành. 

Nhận xét về thực tế này, Thứ trưởng Tài chính Nguyễn Đức Chi cho rằng, khối lượng giao dịch trên thị trường TPDN thứ cấp, bao gồm cả TPDN niêm yết và TPDN phát hành riêng lẻ, đều tăng so năm 2020. Trong quý I/2022, các doanh nghiệp đã chào bán 5.486 tỷ đồng TPDN ra công chúng, cho thấy nhu cầu giao dịch TPDN trên thị trường tương đối lớn, việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống giao dịch TPDN tại Sở Giao dịch chứng khoán (GDCK) là cần thiết để vừa tăng cường tính minh bạch của thị trường, vừa thúc đẩy thanh khoản trái phiếu. 

Theo Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi, trong đà tăng trưởng đó, các cơ quan quản lý càng phải nhìn nhận rõ những rủi ro tiềm ẩn để có giải pháp điều hành phù hợp, khi rõ ràng trên thị trường TPDN đã xuất hiện những vấn đề mới, chỉ có từ 2021 trở lại đây. Trong những rủi ro tiềm ẩn trên thị trường, rủi ro về nhà đầu tư TPDN riêng lẻ rất đáng quan tâm. Mặc dù trên thị trường sơ cấp, tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân mua TPDN riêng lẻ giảm mạnh so năm 2020 nhưng trên thị trường thứ cấp tỷ trọng mua của các nhà đầu tư cá nhân lên tới mức 19% tổng khối lượng phát hành.

Không những thế, để chào mời, mua TPDN riêng lẻ cho nhà đầu tư cá nhân, thị trường đã xuất hiện nhiều cách thức “lách” quy định của pháp luật về nhà đầu tư chứng khoán riêng lẻ. Đã có nhiều nhà đầu tư cá nhân được xác nhận là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp (hiệu lực trong vòng 1 năm) bằng hợp đồng mua kỳ hạn TPCP hoặc chứng khoán niêm yết trong thời gian từ 2-4 ngày. Đã có tình trạng nhà đầu tư cá nhân sử dụng tài khoản vay ký quỹ để chứng minh danh mục chứng khoán niêm yết đang nắm giữ có giá trị hơn 2 tỷ đồng nhưng thực tế số vốn tự có thấp hơn. Đã có cá nhân không trực tiếp đứng tên mua trái phiếu mà ký hợp đồng dân sự với công ty chứng khoán hoặc doanh nghiệp khác để mua TPDN riêng lẻ.

Trong số 358 doanh nghiệp phát hành TPDN riêng lẻ năm 2021, có 57 doanh nghiệp có kết quả kinh doanh lỗ trước khi phát hành. 45 doanh nghiệp có hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu lớn hơn 10 và 10 doanh nghiệp phát hành có tỷ lệ khối lượng phát hành gấp hơn 5 lần vốn chủ sở hữu. Một số doanh nghiệp phát hành để góp vốn, mua cổ phần, mua trái phiếu của doanh nghiệp khác hoặc cho doanh nghiệp khác vay vốn; hoặc phát hành để chuyển vốn “lòng vòng” nhằm lách quy định về giới hạn cho vay/đầu tư TPDN của TCTD đối với một khách hàng/nhóm khách hàng.

Trên thị trường có hiện tượng các doanh nghiệp chào bán công khai TPDN phát hành riêng lẻ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trái phiếu được chào bán là trái phiếu có lãi suất cao (11%-12%/năm), thông tin chào bán do chính tổ chức phát hành trực tiếp chào mời trên thị trường sơ cấp. Ngay cả các tổ chức cung cấp dịch vụ cũng có nhiều vấn đề, như tổ chức tư vấn hồ sơ chào bán trái phiếu là công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ tư vấn, rà soát, hỗ trợ xây dựng hồ sơ chào bán TPDN riêng lẻ đáp ứng quy định về điều kiện và hồ sơ chào bán trái phiếu và có trách nhiệm rà soát, bảo đảm tính tuân thủ của hồ sơ. Tuy nhiên, có hiện tượng một số tổ chức tư vấn xây dựng hồ sơ chào bán có lợi cho doanh nghiệp để huy động vốn mà không cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin công bố cho nhà đầu tư. Hay một số tổ chức đại lý phát hành, tổ chức đăng ký lưu ký đã cung cấp các dịch vụ để hợp thức hóa hồ sơ xác nhận nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp nhằm chào mời nhà đầu tư cá nhân mua TPDN riêng lẻ.

Rõ ràng, các quy định pháp lý hiện có chưa đủ sức răn đe, còn có những nội dung không còn phù hợp thực tiễn, tạo kẽ hở cho một số tổ chức, “lách kẽ”, vi phạm pháp luật, lũng đoạn thị trường. Thị trường TPDN hiện đang rất cần những quy định, giải pháp có tính pháp lý cao, có tầm bao quát rộng hơn, quy định chặt chẽ hơn đủ hiệu lực bóc tách, ngăn chặn những bất cập, sơ hở nguy cơ cản trở con đường tiếp cận nguồn vốn cần có của các doanh nghiệp trong nước, bảo đảm sự phát triển lành mạnh, minh bạch của thị trường. 

Có thể bạn quan tâm

Khi niềm tin thị trường được củng cố, các doanh nghiệp bất động sản có thể huy động vốn với chi phí hợp lý hơn. Ảnh: NAM ANH

Bước ngoặt của trái phiếu doanh nghiệp

Nhiều quy định mới cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang được đưa ra xin ý kiến, hướng tới thay thế các quy định cũ để hoàn thiện khung pháp lý và củng cố niềm tin dài hạn cho thị trường.

Đề xuất cấp quota nhập khẩu vàng đang thu hút nhiều kỳ vọng lẫn băn khoăn.

Băn khoăn với “quota” nhập khẩu vàng

Giữa bối cảnh thị trường vàng liên tục biến động và chênh lệch giá trong nước, quốc tế đang cao kỷ lục, đề xuất cấp quota nhập khẩu vàng đang thu hút nhiều kỳ vọng lẫn băn khoăn. Giải pháp này liệu có đủ sức giải quyết tận gốc sự méo mó kéo dài của thị trường vàng hay chỉ mang tính “giảm đau” ngắn hạn.

Đối mặt “xanh vỏ đỏ lòng”

Khi thị trường chứng khoán (TTCK) có hiện tượng “xanh vỏ, đỏ lòng”, nghĩa là VN-Index tăng, nhưng nhiều cổ phiếu (CP) lại giảm, áp lực của các quỹ đầu tư lại được đem ra mổ xẻ.

“Giảm áp” margin

Trước đây, tiền cho vay ký quỹ (margin) thường được nghĩ đến như dòng vốn ngắn hạn trên thị trường chứng khoán (TTCK). Hiện nay, nhiều nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu (CP) dài hạn cũng sử dụng margin. Nhưng sự bao phủ mạnh mẽ của margin liệu có song hành với những rủi ro tiềm ẩn?

Doanh nghiệp cung cấp giải pháp công nghệ phối hợp với Thuế Hải Phòng trực tiếp xuống chợ hỗ trợ tiểu thương. Ảnh KỲ DUYÊN

Tuân thủ tốt không lo bị kiểm tra thuế

Băn khoăn lớn nhất của các hộ kinh doanh trong cuộc chuyển đổi bỏ thuế khoán là vấn đề xử lý hàng tồn kho, nguy cơ bị truy thu thuế và các vấn đề liên quan đến kỹ thuật khi thay đổi phương pháp tính thuế.

Điểm rơi của dòng tiền

Dòng tiền trên thị trường theo thời gian sẽ có sự chuyển đổi trạng thái rất linh hoạt, thậm chí có cả “độ nén” trong việc tích lũy để chờ cơ hội và sẽ bùng nổ rất nhanh nếu có các thông tin thuận lợi xuất hiện.

Ngân hàng Agribank quản lý chặt chẽ rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cho các dự án năng lượng tái tạo như điện gió. Ảnh: NAM ANH

Thể chế hóa tương lai năng lượng xanh

Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh dấu bước chuyển mạnh trong thể chế hóa chuyển đổi năng lượng xanh. Đây không chỉ là định hướng phát triển ngành năng lượng, mà còn là cam kết của Việt Nam với mục tiêu Net Zero 2050.

Sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp mới niêm yết sẽ cải thiện thanh khoản và thu hút thêm nhà đầu tư. Ảnh: NGUYỆT ANH

Nhiều điểm đáng chú ý từ chỉ số P/E

Theo dữ liệu từ Fiintrade (nền tảng phân tích dữ liệu chứng khoán), định giá P/E của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện ở mức 14,9 lần, tăng hơn 11% chỉ trong nửa năm qua. Con số tưởng chừng tích cực này lại ẩn chứa nhiều tín hiệu đáng suy ngẫm về sức khỏe thật sự của thị trường.

Hướng dẫn doanh nghiệp kê khai tại Thuế thành phố Hà Nội. Ảnh: NAM ANH

Gỡ nút thắt dòng tiền từ chính sách thuế

Luật Thuế giá trị gia tăng mới được kỳ vọng góp phần minh bạch hóa chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý thuế, song quá trình thực thi đang bộc lộ nhiều vướng mắc khiến doanh nghiệp gặp khó về dòng tiền.

Sau IPO, vốn điều lệ của VPBankS sẽ đạt mốc 20 nghìn tỷ đồng tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Ảnh: NAM ANH

Mở đường cho dòng vốn chảy mạnh

Khi thể chế được “cởi trói”, thị trường vốn Việt Nam bước vào chu kỳ tăng trưởng mới. Nghị định 245/2025 với nhiều cải cách trong quy trình chào bán và niêm yết cổ phiếu mở đường cho dòng vốn trở thành động lực mới của tăng trưởng kinh tế.

Chứng khoán Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với kỳ vọng sẽ có sự gia tăng mạnh mẽ. Ảnh: NAM ANH

Chứng khoán mở rộng biên kỳ vọng

Để được nâng hạng chính thức từ ngày 21/9/2026, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ trải qua kỳ rà soát, đánh giá vào tháng 3/2026. Trong khi chờ đợi, các cơ quan quản lý cần khắc phục triệt để những vấn đề đã được nhận diện, tiến tới cải thiện sâu thị trường.

Giao dịch tại sàn giao dịch tài sản mã hóa VIX (VIXEX). Ảnh: VIX

Tạo lập thị trường tài sản mã hóa minh bạch

Nghị quyết 05/2025/NQ-CP của Chính phủ về thí điểm thị trường tài sản mã hóa là bước đi quan trọng để thúc đẩy thị trường tài sản số phát triển, đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng hai con số của nền kinh tế Việt Nam.

Khách hàng vay trên các sàn P2P Lending tối đa là 400 triệu đồng. Ảnh: NAM ANH

Cho vay ngang hàng - cần niềm tin hơn tốc độ

Dư địa của hoạt động này còn rất lớn tại Việt Nam, quy mô có thể đạt tới hàng chục tỷ USD. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng vẫn thiếu các cơ chế bảo vệ cả người vay, lẫn cho vay, tỷ lệ rủi ro của kênh tài chính mới mẻ vẫn ở mức cao.

Chứng khoán Việt Nam đã bắt kịp nhiều quốc gia trong khu vực về mức độ vốn hóa thị trường và thanh khoản. Ảnh: NAM ANH

Mở rộng kênh dẫn vốn cho nền kinh tế

Hành lang pháp lý đang được hoàn thiện với nhiều chính sách mang tính chất đột phá, nhằm thu hút nguồn lực tài chính cho tăng trưởng kinh tế trung và dài hạn. Đồng thời, các sản phẩm đầu tư mới cũng đang được bổ sung, nâng cao tính hấp dẫn của thị trường tài chính Việt Nam.

Cho vay mua bất động sản chiếm tỷ lệ cao trong hoạt động tín dụng. Ảnh: NGUYỆT ANH

Ngăn chặn rủi ro lệ thuộc tín dụng

Trước thực tế dòng vốn tín dụng đang chảy vào bất động sản với tốc độ ngày càng mạnh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động điều chỉnh chính sách nhằm định hướng và kiểm soát dòng vốn này theo hướng an toàn, bền vững hơn.

Nhu cầu về chỗ ở của người dân không ngừng mở rộng, nhất là ở phân khúc nhà ở vừa túi tiền. Ảnh: NAM ANH

"Giấc mơ an cư" cuối năm

Thị trường bất động sản Việt Nam đang tích lũy những yếu tố tích cực. Sự tăng trưởng nóng dựa trên đầu cơ giảm dần, cơ hội năm nay được kiến tạo từ nhu cầu ở thật...

Phát hành trái phiếu đang trở thành kênh hút vốn của các ngân hàng. Ảnh: NGUYỆT ANH

Ngân hàng chạy đua với thanh khoản

Trong bối cảnh tiền gửi tăng trưởng chậm hơn tín dụng, phát hành trái phiếu đang trở thành kênh hút vốn của các ngân hàng. Nhờ đó, họ vừa có thêm nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu cho vay ngày càng lớn, vừa duy trì được chuẩn mực khắt khe về an toàn vốn.

Tin nâng hạng

Những thông tin liên quan đến việc nâng hạng thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang xuất hiện với tần suất khá dày trong những ngày qua và tất nhiên luôn được xem là tin tốt. Mặc dù vậy, nhà đầu tư (NĐT) cũng nên có kỹ năng phân tích, xử lý tin tốt để có thể giao dịch tối ưu.

Thời gian qua, giá vàng trong nước liên tục leo thang. Ảnh: MINH CHÂU

Nỗ lực để vàng không “ngủ yên trong két”

Giới chuyên gia nhận định, việc thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia ở thời điểm này không chỉ đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày càng đa dạng, mà còn là giải pháp quan trọng làm giảm độ "nóng" không cần thiết của thị trường vàng vật chất.

Nền tảng thị trường trái phiếu đang được củng cố, mở đường cho tăng trưởng trở lại.

Biến trái phiếu thành “hàng hiệu”

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) Việt Nam đang phục hồi tích cực sau giai đoạn biến động kéo dài, song vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Các chuyên gia cho rằng, để lấy lại niềm tin nội địa và thu hút thêm dòng vốn đầu tư nước ngoài, cần một “cuộc đại tu” về chất lượng.

Thuê nhà xưởng đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Ảnh: NGUYỆT ANH

“Cởi trói” cho dòng vốn trung và dài hạn

Cho thuê tài chính đã hiện diện tại Việt Nam hơn 20 năm nhưng quy mô vẫn rất nhỏ, mới chiếm 0,28% tổng dư nợ tín dụng. Việc xây dựng luật riêng được kỳ vọng sẽ “cởi trói”, đưa kênh vốn này trở thành trụ cột mới trong cung ứng vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp.

Viettel đã có mặt tại gần 10 quốc gia, mang về hàng tỷ USD doanh thu quốc tế mỗi năm. Ảnh: VIETTEL

Doanh nghiệp Việt tăng tốc trên bản đồ đầu tư toàn cầu

Từ Viettel, FPT đến Vinamilk và TH True Milk, doanh nghiệp Việt đang ghi dấu ấn trên bản đồ đầu tư quốc tế. Làn sóng đầu tư ra nước ngoài không chỉ mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh, mà còn đưa thương hiệu Việt vươn ra biển lớn.

Giao dịch tại MB bank. Ảnh: NAM ANH

Trao “đòn bẩy” vốn cho nhiệm vụ tái cơ cấu ngân hàng

Chính sách giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho bốn ngân hàng đang thực hiện chuyển giao bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước được giới chuyên gia đánh giá là “cú huých” thanh khoản mang tính chiến lược. Không chỉ giúp giải phóng hàng chục nghìn tỷ đồng vốn khả dụng, nó còn mở rộng dư địa tín dụng, tạo tác động lan tỏa tới nền kinh tế.