Mối ràng buộc số - xanh

Chuyển đổi số là nền tảng thiết yếu cho chuyển đổi xanh, song ngay cả với nhiều doanh nghiệp đã nhận thức rõ được điều đó, thì giữa lý thuyết và thực thi vẫn còn là khoảng cách không dễ lấp đầy.

Quá trình chuyển đổi số-xanh gây áp lực lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là về chi phí.
Quá trình chuyển đổi số-xanh gây áp lực lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là về chi phí.

Chật vật chuyển đổi số

Theo báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), chuyển đổi số có thể giúp các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam giảm 15-20% chi phí vận hành. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa đều gặp khó khăn trong quá trình chuyển đổi số, dẫn đến thiếu dữ liệu đo lường chính xác - yếu tố cốt lõi để quản lý và thúc đẩy chuyển đổi xanh.

Công ty Kẻ Gỗ, doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyên sản xuất đồ gỗ, là thí dụ điển hình. Theo báo cáo về chuyển đổi xanh trong ngành sản xuất gỗ Việt Nam, Kẻ Gỗ thiếu hệ thống số hóa để theo dõi nguồn gốc nguyên liệu gỗ - từ khai thác đến chế biến - dẫn đến không đo lường được dấu chân carbon toàn chuỗi cung ứng.

Việc không có công cụ ghi nhận dữ liệu theo thời gian thực về năng lượng tiêu thụ trong nhà máy, khiến việc quản lý lãng phí (như chất thải gỗ và khí thải từ máy móc) trở nên thủ công và thiếu chính xác. Kết quả: Kẻ Gỗ khó tiếp cận thị trường xuất khẩu châu Âu, nơi yêu cầu chứng nhận bền vững như FSC, và phải chịu chi phí cao hơn do không tối ưu hóa quy trình xanh.

Thí dụ trên cho thấy: Thực tế, chuyển đổi số không phải lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc, đặc biệt trong các khâu quản lý, tối ưu vận hành, giám sát nhu cầu năng lượng và phát thải. Song, quá trình này đòi hỏi nhiều nỗ lực, không chỉ đến từ ý chí của ban lãnh đạo mà còn đến từ khả năng đầu tư của doanh nghiệp. Với Công ty Kẻ Gỗ, việc đầu tư cho chuyển đổi số trực tiếp làm tăng giá thành sản phẩm, khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh tại các thị trường vẫn đang nới lỏng yêu cầu về môi trường.

Chuyển đổi số, bởi vậy, lại đang trở thành “vòng kim cô” siết chặt các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Làm chuẩn thì doanh thu trước mắt chắc chắn giảm. Nhưng nếu không làm, doanh thu trong tương lai cầm chắc lao dốc.

Tình cảnh của công ty Kẻ Gỗ phản ánh thực trạng chung của phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. Thiếu dữ liệu đo lường chính xác, mọi nỗ lực xanh hóa chỉ là khẩu hiệu. Không thực hiện chuyển đổi số, họ phải dựa vào lao động thủ công, dẫn đến hiệu suất thấp, khó tiếp cận nguồn vốn xanh, và cánh cửa hội nhập ngày càng thu hẹp.

Sự lựa chọn của Việt Nam

Trong khi đó, áp lực từ bên ngoài ngày càng tăng. Các tiêu chuẩn của châu Âu, đặc biệt là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) đòi hỏi sự quyết đoán. Không chỉ yêu cầu báo cáo phát thải nhúng trong hàng hóa nhập khẩu, từ đầu năm 2026, Liên minh châu Âu (EU) sẽ áp thuế dựa trên giá carbon ETS (khoảng 80-100 euro/tấn CO2). Tháng 9/2025, EU đã cập nhật quy định, bao gồm ngưỡng 50 tấn cho nhà nhập khẩu nhỏ để giảm gánh nặng hành chính, và lời kêu gọi bằng chứng về phương pháp tính phát thải.

Đây chính là lúc mối quan hệ ràng buộc chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trở thành lối thoát duy nhất. Số hóa cung cấp dữ liệu chính xác để theo dõi nguồn gốc, năng lượng và phát thải từ nguyên liệu đến sản phẩm cuối. Thiếu số hóa cùng chuỗi cung ứng phân mảnh dẫn đến không đo lường được tác động môi trường.

Trong quản lý, chuyển đổi số giúp lãnh đạo doanh nghiệp ra quyết định dựa trên dữ liệu, sử dụng hệ thống ERP tích hợp tài nguyên và nhân sự. Về tối ưu vận hành, công nghệ như AI và IoT giúp tự động hóa quy trình, giảm thời gian ngừng máy và tối ưu chuỗi cung ứng. Không những vậy, AI giúp dự đoán bảo trì thiết bị, tăng năng suất 5-15% và giảm tiêu thụ nguyên vật liệu không cần thiết.

Trong quá trình giám sát nhu cầu năng lượng và phát thải, chuyển đổi số cung cấp công cụ đo lường theo thời gian thực. Công nghệ IoT giúp theo dõi lượng điện và khí đốt sử dụng, từ đó cắt giảm lãng phí tới 20-30%. Đồng thời, dữ liệu lớn hỗ trợ phân tích lượng khí thải nhà kính từ các hoạt động trực tiếp, gián tiếp, và chuỗi cung ứng của doanh nghiệp.

Dù khắt khe, CBAM là cơ sở để các nước như Việt Nam nâng cao trách nhiệm, buộc các doanh nghiệp vừa và nhỏ đo lường dấu chân carbon để tránh phí cao. Theo báo cáo của Viện Phát triển Bền vững (IISD), cơ chế này dù ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt ngành thép, xi-măng và phân bón, nhưng cũng thúc đẩy quá trình chuyển sang vật liệu thấp carbon trong giai đoạn 2025-2030.

Rõ ràng, xanh hóa là trách nhiệm của cả thế giới và Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này. Trong bối cảnh ấy, chuyển đổi số chính là nền móng bắt buộc, là chìa khóa giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ đi từ thế bị động, sang thế chủ động dẫn dắt.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.