Dáng bay Việt Nam (kỳ 2)

Kỳ 2: Tìm mục tiêu giữa lưới nhiễu

Ông La Văn Sàng bên tấm ảnh chụp cùng các chuyên gia Liên Xô.
Ông La Văn Sàng bên tấm ảnh chụp cùng các chuyên gia Liên Xô.

Ngày 12/4/1966, máy bay B52 lần đầu tiên tấn công vào miền bắc Việt Nam, vị trí đèo Mụ Giạ (Quảng Bình cũ). Một nguồn tin từ Washington cho biết: “Một khi đã mở đường thì không có lý do gì để không tiếp tục” (*). Và hành trình của bộ đội tên lửa Việt Nam, bước sang một giai đoạn mới.

Giữa bạt ngàn nhiễu loạn

Ngày 21/5/1956, máy bay ném bom chiến lược B52 của Mỹ lần đầu tiên ra mắt, thả bom nhiệt hạch trong khuôn khổ Chiến dịch Red Wing tại đảo Bikini, Thái Bình Dương. Chiếc “pháo đài bay” được mệnh danh bất khả chiến bại với những thông số khủng khiếp đã liên tục mang đầu đạn hạt nhân lượn lờ suốt Chiến dịch Chrome Dome (1961-1968), nhằm đe dọa Liên Xô.

Ngày 12/4/1966 không phải ngày đầu tiên B52 rải bom ở Việt Nam. Đó chỉ là thời điểm, người Mỹ đã sốt ruột và gia tăng không kích. “Kể từ tháng 2/1965, các máy bay tiêm kích ném bom của Mỹ đã liên tục tấn công miền bắc Việt Nam gần như mỗi ngày” (**). Trước đó, ngày 18/6/1965, Mỹ huy động 27 lượt máy bay B52 ném bom rải thảm tại khu vực Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một, phía tây bắc Sài Gòn (nay thuộc TP Hồ Chí Minh). Mục tiêu chính của Mỹ là phá hủy căn cứ cách mạng, các cơ quan đầu não của ta cùng với dân cư địa phương.

Từ tháng 5/1966, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) đã điều Trung đoàn tên lửa 238 vào Vĩnh Linh (Quảng Trị) để nghiên cứu và tìm cách đánh B52. Đây là nhiệm vụ chưa từng có tiền lệ. Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (AHLLVTND) Trần Mạnh Hiến, nguyên sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 82, Trung đoàn 238, nhớ lại: “Trong cuộc đời binh nghiệp 43 năm, kỷ niệm sâu sắc nhất với tôi là hành quân vào chiến trường B - Quảng Trị, trực tiếp nghiên cứu và chiến đấu với B52”.

Đánh hụt

Chúng tôi đã gặp nhiều anh hùng trực tiếp bắn rơi B52, và hầu hết họ đều thừa nhận, chỉ tới khi bắn rơi chiếc máy bay đầu tiên, họ mới thật sự được đối diện với siêu pháo đài bay. AHLLVTND Hoàng Văn Nam, nguyên sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 52, Trung đoàn 267 cho biết, ông chỉ được nhìn thấy B52 vào đêm 18/12/1972. AHLLVTND Nguyễn Đình Kiên, nguyên sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 57, Trung đoàn 261, người đã bắn rơi bốn chiếc B52 trong 12 ngày đêm Hà Nội năm 1972 cũng nói đơn vị mình chưa từng tiếp xúc trực tiếp với B52 trước đó.

Giai đoạn đầu của cuộc chiến, việc phân biệt các loại máy bay địch là một thách thức lớn đối với bộ đội tên lửa Việt Nam. AHLLVTND Phạm Trương Uy vẫn nhớ lần “bắn nhầm B52” ngày 2/4/1972 tại trận địa Mễ Chè (Vĩnh Linh). 15 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 64 nhận được lệnh tiêu diệt một tốp B52 đang cách trận địa 70 km về hướng tây nam. Kíp chiến đấu do Tiểu đoàn trưởng Phạm Trương Uy chỉ huy, cùng sĩ quan điều khiển Lê Văn Khánh và các trắc thủ, đã chọn đúng dải nhiễu của B52 theo cách đánh đã được huấn luyện và phóng hai quả tên lửa. Đài radar P12 theo dõi xác định máy bay địch rơi, và sở chỉ huy Trung đoàn 236b cùng Sư đoàn 365 đã điện biểu dương Tiểu đoàn 64 vì bắn rơi chiếc B52 đầu tiên trong chiến dịch Trị - Thiên.

Nhưng thực tế, đó không phải là B52 mà là máy bay gây nhiễu từ xa EB66. Phía Mỹ cũng đã đưa ra các tài liệu tái khẳng định điều này trong một buổi gặp mặt ngày 21/2/2000 giữa kíp tên lửa Việt Nam và đoàn hoạt động hỗn hợp Việt - Mỹ tìm kiếm người mất tích. Với người Mỹ, sự kiện này, cùng với chiếc OV-10 bị bắn rơi vào ngày hôm sau khi tham gia cứu hộ, đã trở thành một dấu tích nặng nề trong chiến tranh tại Việt Nam. Nhưng với phía Việt Nam, đó là một minh chứng cho sự phức tạp của chiến tranh điện tử và những thách thức trong việc nhận diện mục tiêu.

Mỗi chiếc B52 mang từ 9 đến 15 máy gây nhiễu, tạo ra một dải nhiễu rất mịn, dày và ổn định, che lấp toàn bộ tín hiệu máy bay. Việc phân biệt giữa tín hiệu thật và nhiễu giả, hay giữa B52 và các loại máy bay gây nhiễu khác thời điểm đó là vô cùng thách thức. Màn hình hiện sóng thường bị “trắng xóa toàn bộ” hoặc “rối bời như một mớ bòng bong (***)”. Chính ông Phạm Trương Uy, người bắn rơi chiếc EB66 cũng nói lúc đó nếu theo lý thuyết thì “hai dải nhiễu giống nhau quá”.

Ngày 16/4/1972, Không quân Mỹ huy động 60 chiếc F4 bay cao 10 km, giả làm B52 để tấn công Hà Nội và Hải Phòng. Radar của ta đã nhầm tưởng đó là B52. Các đơn vị tên lửa bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng liên tiếp phóng nhiều đạn tên lửa nhưng không rơi chiếc nào. Giai đoạn này được mô tả là “nặng nề nhất” đối với bộ đội PK-KQ (****).

Một đội Nhiễu chống nhiễu

Đại tá, kỹ sư La Văn Sàng công tác tại Trung đoàn tên lửa 274 trước khi được điều động về Bộ Tham mưu vào năm 1966 để tham gia thành lập Ban Nghiên cứu nhiễu (sau này là Đội trinh sát nhiễu) dưới sự lãnh đạo của Đội trưởng Phan Thu (sau này là Trung tướng, AHLLVTND, Phó Giáo sư). Ban đầu, đội tập trung nghiên cứu nhiễu của các loại máy bay tiêm kích F. Vào năm 1968, theo chỉ thị của Bác Hồ và Tư lệnh PK-KQ Lê Văn Tri, trọng tâm nghiên cứu của đội đã chuyển sang cách đánh B52. Để thực hiện nhiệm vụ này, một đoàn gồm 34 thành viên, bao gồm ông La Văn Sàng, do ông Phan Thu dẫn đầu (gồm các trợ lý từ không quân, tên lửa và radar), đã được cử vào Khu 4 (Vĩnh Linh, Quảng Trị), đặc biệt là đỉnh Cà Roòng (cao điểm 671), để nghiên cứu nhiễu B52.

Ông Sàng nói không bao giờ quên những ngày trực trên điểm cao 671, sử dụng máy thu D1K cùng các hệ thống khác để thu tín hiệu B52 khi chúng phát sóng. “Mục đích chính của nghiên cứu ở Khu 4/Đường 559 là phát hiện quy luật hoạt động của nhiễu B52 để có thể thông báo trước cho các đơn vị hoạt động trên Đường 559 và Đường 20 biết khi nào B52 vào đánh phá (thường báo trước khoảng 10 phút), giúp các phương tiện, công binh và thanh niên xung phong kịp thời ứng phó”, ông Sàng cho biết.

Những ngày tháng trên đỉnh Cà Roòng trực chiến, những buổi đến từng trận địa nghiên cứu, chụp hình từng đường bay tên lửa, từng tín hiệu nhiễu, cả khoảnh khắc chiếc máy bay trúng đạn… tất cả ông Sàng đều tổng hợp, lưu giữ tới tận giờ. Sau nhiều lần nghiên cứu, đội của ông Sàng đã rút ra được quy luật hoạt động cơ bản của B52.

Một phát hiện quan trọng nữa là trong một trận đánh của Tiểu đoàn 64, sau khi phóng tên lửa mà không trúng, đơn vị đã phát sóng lại và phát hiện tín hiệu B52 trên nền nhiễu ở cự ly 24-27 km. Điều này là một bước đột phá, vì trước đó nhiều người nghĩ rằng không thể phát hiện tín hiệu mục tiêu B52 do cường độ nhiễu quá mạnh. Phát hiện này đã khẳng định rằng có thể xác định tín hiệu B52 ở một cự ly nhất định (khoảng 30-40km).

Từ kinh nghiệm này, đội Nhiễu đã báo cáo lên Tư lệnh Lê Văn Tri, đề nghị dứt khoát tổ chức đánh B52 ở cự ly đó. Những kinh nghiệm này đã được tổng kết và đóng góp vào tài liệu “Sách đỏ B52” (tài liệu tổng hợp cách đánh B-52 phát hành năm 1972).

Ngay từ năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Quân chủng PK-KQ “theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm” đến B52. Tháng 7/1965, Bác đã khẳng định: “dù có B52 cũng đánh và phải thắng”.

Ngày 24/3/1966, sau khi xem xác chiếc máy bay trinh sát tầm cao bị tên lửa ta bắn rơi, Bác Hồ đã chỉ thị cho Quân chủng PK-KQ phải nghiên cứu và chuẩn bị đối phó với B52, vì sớm muộn gì Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh phá miền bắc.

Tháng 7/1965, Người khẳng định: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B57, B52 hay “bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh... mà đã đánh là nhất định thắng”.

Cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo một cách chính xác rằng: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”.

(Nguồn: Tài liệu Quân chủng PK-KQ)

Giữa túi bom

Chiến trường Quảng Bình, Quảng Trị khi đó cực kỳ ác liệt. Ông Hoàng Văn Nam kể, khi đơn vị ông hành quân vào Quảng Bình (Bố Trạch, phía nam sông Gianh) để bảo vệ chiến dịch Quảng Trị, ông “tưởng là không sống nổi” vì bom đạn địch san bằng chung quanh trận địa. Ông Nguyễn Đình Kiên mô tả vùng A2 (từ Thanh Hóa tới Vĩnh Linh, Quảng Trị) vào tháng 5-6/1968 là “cán xoong”, nơi địch truy tìm và đánh phá lực lượng phòng không ta rất dữ dội. Các tiểu đoàn tên lửa phải liên tục cơ động, ngụy trang, thậm chí phải chôn khí tài dưới đất để tránh bị phát hiện.

Trung tướng, AHLLVTND Nguyễn Văn Phiệt, nguyên Tiểu đoàn trưởng 57, Trung đoàn Tên lửa 261 kể lại: “Nó đánh không lúc nào ngóc đầu dậy. Cứ hết pháo kích rồi máy bay ném bom”. Trong một trận đánh vào tháng 5/1968 tại Nghi Trường (Nghệ An), trận địa của Tiểu đoàn 57 bị địch tấn công suốt 24 tiếng, khiến khí tài bị hỏng nặng và 13 người hy sinh.

Ông Phạm Trương Uy cũng kể lại, chỉ cần qua sông Gianh là chiến trường khác hẳn: “Trên trời không lúc nào không có máy bay. Sơ sảy là OV10 chỉ điểm. Trong đó bốn bề đều là địch, muốn kiểm tra sóng cũng khó”. Địa hình rừng núi phức tạp khiến việc phát hiện mục tiêu và ngụy trang trở nên khó khăn. Các trận địa tên lửa chỉ bố trí được ít bệ phóng hơn tiêu chuẩn (vài ba bệ thay vì sáu bệ). Mưa gió và ẩm ướt thường xuyên làm hỏng khí tài. Trước khi bắn rơi chiếc B52 đầu tiên, ngày 15/3/1967, Tiểu đoàn 81, 83 của Trung đoàn 238 cũng đã đối mặt với B52, nhưng do khí tài không bảo đảm mà đành để mục tiêu vụt mất.

Trung đoàn 238 đã phải chịu tổn thất nặng nề, mất gần một trung đoàn quân số và hai trung đoàn khí tài trong quá trình này, nhưng đến tháng 8/1967, họ đã nắm được cách phát hiện tín hiệu thật của B52. Đó là tiền đề để ngày 17/9/1967, tại Vĩnh Linh, Tiểu đoàn 84 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Đình Phiên chỉ huy đã bắn rơi hai chiếc B52 chỉ trong vòng hơn 3 phút. Đây là lần đầu tiên B52 bị tên lửa đất đối không đánh gục ở Việt Nam.

(Còn nữa)

(*) (**) Báo New York Times 12/4/1966.

(***) (****) Giới thiệu về trận Điện Biên Phủ trên không (Tài liệu tổng hợp của Trung tá, Phó trưởng Phòng Tác huấn - Bộ Tham mưu Quân chủng PK-KQ Lưu Trọng Lân, 1999).

Dáng bay Việt Nam (kỳ 1)

Có thể bạn quan tâm

Những mùa nho Hạ Đen

Một đêm khó quên vào tháng 9/2024. Gió rít liên hồi, cuốn theo mưa như trút nước sau khi bão càn quét qua địa phận xã Nam Dương (tỉnh Bắc Ninh). Lũ ập đến, nhấn chìm vườn nho Hạ Đen rộng hàng nghìn mét vuông của vợ chồng chị Giáp Thị Tuyền.

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.