Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)
Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Căn nguyên của vấn đề này không đơn giản chỉ nằm ở lượng mưa ngày một tăng cao, mà sâu xa hơn là do tư duy quy hoạch, phát triển đô thị chưa gắn với quy luật thủy văn, trong khi hạ tầng kỹ thuật thiếu đồng bộ, không đủ sức chống chịu tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, cùng hiện tượng sụt lún nền đất ngày một tăng mạnh ở một số nơi.

Sự cân bằng bị phá vỡ bởi quá trình đô thị hóa ồ ạt

Thực tế cho thấy, hiện tượng ngập lụt trên diện rộng ở các đô thị đã không còn là sự cố nhất thời mà là thách thức mang tính cấu trúc, phản ánh những bất cập trong tư duy phát triển và quản trị đô thị hiện nay. Sự mở rộng nhanh chóng của các đô thị đã kéo theo hàng loạt thay đổi trong môi trường tự nhiên. Những vùng đất trũng, ao hồ, kênh rạch từng đóng vai trò là không gian trữ nước tự nhiên đã bị san lấp để xây nhà, làm đường hoặc phát triển khu công nghiệp.

Mặt khác, diện tích bề mặt bê-tông hóa tăng nhanh khiến khả năng thấm nước mặt của đất giảm mạnh. Mỗi khi mưa lớn, thay vì thấm dần xuống đất, nước mưa chảy tràn trên bề mặt và dồn nhanh vào hệ thống cống. Trong khi, hệ thống thoát nước của đô thị được xây dựng từ hàng chục năm trước, với tiết diện nhỏ, tần suất thiết kế thấp, không còn phù hợp điều kiện mưa cực đoan hiện nay.

Đơn cử tại Hà Nội, các tuyến cống chỉ đủ khả năng thoát nước với lượng mưa có cường độ 70-80 mm/giờ, trong khi các trận mưa gần đây thường đạt 120-150 mm/giờ. Tương tự, ở Thành phố Hồ Chí Minh, phần lớn cống ngầm được xây dựng từ trước năm 2000, nay đã xuống cấp nghiêm trọng, nhiều đoạn bị bùn lắng chiếm tới một nửa tiết diện. Khi lượng nước mưa tăng gấp đôi mà năng lực thoát nước không đổi, ngập lụt trở thành kết cục tất yếu.

Cùng với đó, quá trình đô thị hóa ồ ạt đã phá vỡ sự cân bằng hệ thống thoát nước tự nhiên. Việc nâng nền cục bộ ở từng khu dân cư, dự án hay tuyến đường khiến dòng chảy tự nhiên bị chia cắt, tạo ra các "bức tường ngăn nước" khiến khu vực thấp hơn bị dồn ngập. Tình trạng quy hoạch manh mún, thiếu phối hợp giữa các địa phương, các ngành xây dựng và nông nghiệp dẫn đến hệ thống tiêu thoát nước đô thị không liên kết theo lưu vực mà chỉ theo ranh giới hành chính. Khi mưa lớn xảy ra, nước từ khu vực này dồn sang khu vực khác, gây ngập chéo vùng và khiến việc kiểm soát trở nên khó khăn.

Ngập lụt đô thị không chỉ là câu chuyện của hạ tầng mà còn là vấn đề của khí hậu và địa chất. Những năm gần đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện với tần suất dày hơn, mưa lớn tập trung trong thời gian ngắn, trong khi triều cường ngày càng cao và kéo dài. Nhiều đợt triều cao ở Thành phố Hồ Chí Minh vượt ngưỡng lịch sử 1,7m, khiến các tuyến cống thoát nước bị triều dội ngược, làm nước mưa không thể rút. Tại thành phố Cần Thơ, triều cường và mưa lớn thường trùng thời điểm, gây ngập trên diện rộng ngay cả ở khu vực mới nâng nền.

Nghiêm trọng hơn, nước biển dâng đang làm thay đổi hoàn toàn mối quan hệ giữa đô thị và hệ thống sông ngòi ven biển. Theo các kịch bản khí hậu quốc gia, mực nước biển có thể dâng 30-50 cm vào giữa thế kỷ này. Đối với những thành phố có cao độ trung bình chỉ hơn mực nước biển 1-1,5m như Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, hay Bạc Liêu, Hạ Long (cũ), chỉ cần mực nước tăng thêm vài chục cm là đủ khiến hàng loạt khu vực thấp trở thành vùng ngập triều quanh năm. Các cống thoát nước tự chảy vốn phụ thuộc vào chênh cao tự nhiên giữa mặt đất và sông rạch nay mất tác dụng, buộc phải lắp trạm bơm cưỡng bức. Nhưng vận hành trạm bơm trong điều kiện triều dâng và mưa lớn cùng lúc rất tốn kém, khó đạt hiệu quả bền vững.

Đi kèm với nước biển dâng là hiện tượng sụt lún nền đất, một nguy cơ âm thầm nhưng vô cùng nghiêm trọng. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tốc độ lún ở Thành phố Hồ Chí Minh đạt trung bình 1,5-2,5 cm/năm, có nơi vượt 4 cm, chủ yếu do khai thác nước ngầm quá mức và tải trọng xây dựng. Chỉ trong hai thập kỷ, mặt đất tại một số khu vực đã hạ thấp hơn 40 cm so cao độ ban đầu. Khi nền đất hạ dần trong khi mực nước triều lại tăng, sự chênh lệch này làm cho nguy cơ ngập trở nên thường trực vì không thể xác định chính xác cao độ chuẩn. Nếu không kiểm soát khai thác nước ngầm và xây dựng cơ chế theo dõi lún định kỳ, mọi công trình chống ngập đều sẽ nhanh chóng lạc hậu…

Sớm hình thành tư duy sống hài hòa với nước

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng ngày càng khốc liệt, đô thị Việt Nam cần chuyển từ thế bị động sang chủ động thích ứng. Đó là hành trình dài, đòi hỏi sự phối hợp giữa các cấp, ngành, sự đồng hành của cộng đồng và tư duy phát triển mới, tư duy sống hài hòa với nước, coi nước là nguồn sống chứ không phải mối họa. Do đó, bên cạnh các giải pháp kỹ thuật như đã nói ở trên, yếu tố con người và thể chế đóng vai trò then chốt trong cơ chế phối hợp liên ngành rõ ràng giữa quy hoạch, xây dựng, tài nguyên, môi trường và nông nghiệp.

Về thể chế, hệ thống thoát nước đô thị cần được coi là hạ tầng chiến lược, có cơ quan điều phối chuyên trách thay vì phân tán cho nhiều đơn vị. Cần luật hóa các quy định về quy hoạch, đầu tư và vận hành dựa trên tầm nhìn dài hạn, vượt khỏi giới hạn của nhiệm kỳ và địa giới hành chính.

Về con người, cần phát huy vai trò của cộng đồng trong quản lý thoát nước đô thị. Mỗi người dân đều là một thành tố quan trọng trong toàn trình của hệ thống thoát nước, bởi chỉ cần một hành vi xả rác xuống cống cũng có thể làm tắc cả tuyến. Chỉ khi chu trình này được vận hành trôi chảy mới có thể hình thành văn hóa đô thị sống hài hòa với nước và các giải pháp kỹ thuật mới có thể phát huy hiệu quả bền vững.

Một yếu tố quan trọng khác là tài chính. Đầu tư cho thoát nước đòi hỏi nguồn vốn lớn và dài hạn, nên cần huy động nguồn lực xã hội. Hình thức hợp tác công-tư có thể được áp dụng trong các dự án hồ điều hòa, công viên sinh thái, trạm bơm hoặc hệ thống quan trắc ngập. Khi có cơ chế minh bạch, lợi ích rõ ràng, doanh nghiệp sẽ sẵn sàng tham gia.

Trong dài hạn, quy hoạch phát triển đô thị phải được định hướng trên nền tảng thích ứng khí hậu. Mỗi đô thị cần xác định ranh giới vùng dễ ngập, vùng lún, vùng chịu ảnh hưởng để có chiến lược phát triển phù hợp. Những khu vực thấp, gần sông nên hạn chế mật độ xây dựng, ưu tiên làm không gian xanh hoặc công trình có khả năng chịu ngập. Những khu vực có nền đất yếu cần kiểm soát tải trọng công trình, giảm khai thác nước ngầm. Cách tiếp cận này đòi hỏi tầm nhìn hệ thống, gắn quy hoạch không gian với quy hoạch thủy văn, địa chất và khí hậu.

Những gợi mở về một chiến lược tổng thể

Trên khắp cả nước, phần lớn các công trình thủy lợi được xây dựng với tuổi thọ thiết kế dưới 50 năm và thiếu tính gắn kết bắt buộc với kịch bản nước biển dâng hoặc sụt lún cực đoan, dẫn tới hiệu quả nhanh chóng suy giảm. Hơn thế, ở một số khu vực, cao độ miệng cống thoát nước hiện thấp hơn mực triều trung bình. Khi triều dâng, nước không thoát mà còn dội ngược vào nội đô. Đây là biểu hiện rõ nhất của sự thiếu tính thích ứng trong quy hoạch và quản lý hạ tầng. Để ứng phó với ngập lụt đô thị trong bối cảnh hiện nay, không thể chỉ dựa vào các công trình đơn lẻ, mà cần một chiến lược tổng thể dựa trên tư duy tích hợp giữa quy hoạch đô thị, thủy lợi và thích ứng khí hậu.

Thứ nhất, quy hoạch đô thị phải gắn chặt với quy hoạch thoát nước và quy hoạch lưu vực. Mỗi đồ án phát triển mới cần có đánh giá thủy văn, thủy lực, mô phỏng ngập cho các kịch bản mưa, triều cường, nước biển dâng và lún nền trong khoảng 50 năm tới. Chỉ khi hiểu rõ dòng chảy và rủi ro, mới có thể xác định vị trí hợp lý cho khu dân cư, công viên, hồ điều hòa và hành lang thoát nước. Bất kỳ dự án nào san lấp kênh rạch hay thay đổi địa hình đều phải được đánh giá tác động ngập một cách bắt buộc, tương tự như đánh giá môi trường chiến lược.

Thứ hai, cần nâng cấp toàn diện hệ thống thoát nước hiện có theo hướng thông minh, linh hoạt. Việc nâng cấp không chỉ là mở rộng cống hay tăng công suất bơm, mà là tái cấu trúc toàn mạng lưới theo nguyên tắc lưu vực khép kín. Các cống chính phải được kết nối với hồ điều hòa, trạm bơm và cống ngăn triều trong một hệ thống điều khiển thống nhất, thay vì bị động chờ khi ngập mới xử lý.

Thứ ba, hạ tầng thoát nước phải được kết hợp với hạ tầng xanh, hạ tầng tự nhiên. Không gian cho nước cần được trả lại trong đô thị bằng các hồ điều hòa, công viên ngập nước, mặt đường, vỉa hè thấm nước và cần có giải pháp thu, trữ cũng như tái sử dụng nước mưa tại chỗ. Đô thị cần phát triển theo mô hình đô thị thấm nước, khi đó mưa sẽ không còn bị xem là gánh nặng mà trở thành nguồn tài nguyên tái tạo.

Thứ tư, cần kiểm soát chặt chẽ việc khai thác nước ngầm để giảm sụt lún. Cấp nước đô thị nên chuyển dần sang sử dụng hoàn toàn nguồn nước mặt, xây dựng mạng lưới quan trắc lún và cập nhật bản đồ cao độ đô thị định kỳ. Việc xác định lại cao độ chuẩn kỹ thuật là điều bắt buộc để bảo đảm các công trình chống ngập mới có thể đáp ứng trong điều kiện thực tế, kịp thời xem xét điều chỉnh cốt nền quy hoạch bảo đảm chênh cao tối thiểu so mực nước triều cao nhất.

Thứ năm, quản lý và vận hành hạ tầng đô thị phải được hiện đại hóa. Mỗi đô thị nên xây dựng cơ sở dữ liệu số thống nhất về hệ thống cống, kênh, hồ, trạm bơm, bao gồm vị trí, kích thước, tình trạng và lịch sử bảo trì được giám sát bằng công nghệ. Khi mọi thông tin được số hóa và kết nối, việc điều hành sẽ nhanh, chính xác và tiết kiệm hơn nhiều so cách làm rời rạc hiện nay.

Ngập lụt đô thị, theo nhận thức chung của giới nghiên cứu là hệ quả tổng hợp của tự nhiên và con người, nhưng cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại mô hình phát triển hiện tại. Theo đó, nên xem nước là yếu tố kiến tạo chứ không phải kẻ thù. Chỉ khi quy hoạch và thủy lợi cùng hướng về một mục tiêu trên cơ sở tôn trọng dòng chảy tự nhiên và người dân được đặt ở trung tâm của hoạt động quản trị nước, thì bài toán ngập lụt mới có thể dần được giải quyết căn cơ. Nhờ đó, các đô thị Việt Nam sẽ không còn mãi loay hoay trong vòng luẩn quẩn "ngập - nâng nền - lại ngập" mà có thể vững vàng hướng tới một tương lai an toàn, linh hoạt và bền vững■

Có thể thấy năng lực hạ tầng đô thị hiện nay không chỉ yếu mà còn thiếu khả năng thích ứng. Quy mô thiết kế nhỏ, kết cấu mạng lưới thiếu liên kết, công tác duy tu không thường xuyên, dữ liệu quản lý thiếu đồng bộ, và đặc biệt là chưa tính đến yếu tố biến đổi khí hậu trong quy hoạch kỹ thuật.

Có thể bạn quan tâm

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ. 

Cần nhiều biện pháp để phát triển nghề cá theo hướng chuyên nghiệp, giảm cường lực khai thác, tăng cường nuôi biển. (Ảnh LÊ VĂN CHƯƠNG)

Gỡ... tư duy ăn xổi

Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải "tuyên chiến" với khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).

Lực lượng chức năng Cảnh sát biển Việt Nam truy đuổi tàu cá vi phạm vùng biển khai thác.

Kiên quyết ngăn chặn vi phạm IUU

Những vi phạm trong khai thác đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Việc xử lý tàu cá vi phạm và các "đầu nậu", vì thế, cần được triển khai hiệu quả hơn.

Ông Vũ Duyên Hải, Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Nỗ lực gỡ "thẻ vàng" của Việt Nam được đánh giá cao

Đến thời điểm này, toàn bộ tàu cá của Việt Nam đã được đăng ký và nhập dữ liệu lên hệ thống Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase). Đây là khẳng định của ông Vũ Duyên Hải (ảnh bên), Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khi trả lời phỏng vấn Nhân Dân cuối tuần.