Chủ động tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

Theo cơ quan chức năng, dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam, dự kiến cần tới 180.000 người phục vụ công tác xây dựng, 13.880 người vận hành và khai thác, 700 người làm việc trong các cơ quan quản lý và đội ngũ kỹ sư tư vấn. Đào tạo nguồn nhân lực là một trong những yếu tố then chốt quyết định sự thành công của dự án trọng điểm quốc gia này.
Sinh viên ngành giao thông vận tải trong một chương trình thực tế tại doanh nghiệp. Ảnh: DUY TÙNG
Sinh viên ngành giao thông vận tải trong một chương trình thực tế tại doanh nghiệp. Ảnh: DUY TÙNG

Nhận thức rõ tầm mức vấn đề nguồn nhân lực, Bộ Giao thông vận tải đã giao các đơn vị liên quan chuẩn bị đội ngũ và nâng cao năng lực ngành công nghiệp đường sắt để phục vụ nhu cầu phát triển ngành đường sắt nói chung, và dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam nói riêng. Yêu cầu đặt ra, nguồn nhân lực chất lượng cao phải bảo đảm khả năng tiếp nhận chuyển giao, nhanh chóng làm chủ công nghệ vận hành, bảo trì...

Đào tạo “đi trước, đón đầu”

Trong Tờ trình số 685/TTr-CP ngày 19/10/2024 của Chính phủ về phê duyệt chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục bắc-nam, Bộ trưởng Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng đã nêu bật phương án về đào tạo cũng như kinh phí đào tạo nguồn nhân lực. Theo đó, để bảo đảm nguồn nhân lực đường sắt nói chung và đường sắt tốc độ cao nói riêng, Chính phủ đã chỉ đạo triển khai xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực đường sắt; đối với đường sắt tốc độ cao, đề xuất chương trình đào tạo nguồn nhân lực theo ba loại hình: đào tạo trong nước, nước ngoài, kết hợp đào tạo trong và ngoài nước với bốn cấp trình độ (công nhân kỹ thuật, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ cho năm chủ thể: cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị quản lý dự án, đơn vị vận hành khai thác, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu).

Ông Vũ Hồng Phương, Giám đốc Ban Quản lý dự án Đường sắt cho biết, Bộ chủ quản đã giao các đơn vị lập đề án riêng về đào tạo nguồn nhân lực kèm theo đề án của dự án. Có những nhân lực sẽ được đào tạo ngay sau khi dự án được phê duyệt chủ trương đầu tư để nghiên cứu loại hình, công nghệ đầu tư, quản lý dự án.

Còn theo Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải, công tác đào tạo nguồn nhân lực cần thực hiện nhanh chóng, kịp thời để đáp ứng nhu cầu lao động khi dự án đường sắt tốc độ cao của Việt Nam được triển khai, góp phần phòng, tránh rủi ro chậm tiến độ. Mặc dù Việt Nam hiện đã có khoảng 80% nhân lực đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ bản, nhưng vẫn cần đẩy mạnh đào tạo cho các vị trí yêu cầu kỹ năng chuyên sâu.

Dấu mốc về nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu

Ngày 25/5/2023, Bộ Giao thông vận tải ban hành Chỉ thị số 06/CT-BGTVT về tăng cường công tác quản lý các trường, học viện thuộc Bộ Giao thông vận tải. Trong đó, Bộ yêu cầu các trường, học viện rà soát, nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo các ngành, nghề cốt lõi, phục vụ ngành giao thông vận tải; phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan nghiên cứu, xây dựng, phát triển các chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển ngành giao thông vận tải theo định hướng phát triển giao thông vận tải đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt lưu ý đào tạo nhân lực đường sắt đô thị, đường sắt tốc độ cao... Bộ cũng yêu cầu Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải chủ động, phối hợp các cơ quan, đơn vị liên quan xây dựng định hướng phát triển nhân lực ngành giao thông vận tải.

Với vai trò là trường đại học lớn đào tạo nhân lực hàng đầu của ngành giao thông vận tải, Trường đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh tự hào là cơ sở đầu tiên của Việt Nam đào tạo và tiếp cận công nghệ đường sắt tốc độ cao. Từ năm 2008, nhà trường đã bắt đầu đào tạo ngành đường sắt Metro. Những năm qua, lãnh đạo nhà trường đã trực tiếp và cử nhiều đoàn công tác đi Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và châu Âu để tìm hiểu về đường sắt tốc độ cao. Với những kinh nghiệm cùng thực tiễn tích lũy được, đầu tháng 10 vừa qua, nhà trường đã chính thức công bố thành lập Viện Đường sắt tốc độ cao.

PGS, TS Nguyễn Anh Tuấn, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định, đây chính là thời điểm chín muồi để nhà trường triển khai công tác đào tạo về đường sắt tốc độ cao. Việc ra đời của Viện ở thời điểm này mang ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng về vai trò của trường đối với sự phát triển của hạ tầng giao thông Việt Nam.

Để tận dụng tối ưu các lợi thế sẵn có, Trường đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi từ các quốc gia tiên tiến và tiếp thu những bài học thực tiễn từ các dự án tương tự, cùng đó sẽ tạo ra các chương trình đào tạo chuyên sâu kết hợp thực tiễn doanh nghiệp, giúp sinh viên và giảng viên nắm vững kiến thức cũng như kỹ năng cần thiết.

Một cơ sở khác là Trường đại học Công nghệ Giao thông vận tải đã và đang xây dựng các chương trình đào tạo mới, phù hợp nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành đường sắt, rà soát điều chỉnh các chương trình đào tạo phù hợp triết lý “Ứng dụng-Thực học-Thực nghiệp” của nhà trường. Các chương trình đào tạo với thời lượng thực hành, thực tập chiếm hơn 40% thời gian, giúp người học có thể tiếp cận công việc ngay khi tốt nghiệp. Ngoài các chương trình đào tạo đang áp dụng, trong năm 2025 nhà trường sẽ mở mới nhiều chương trình đào tạo liên quan đường sắt tốc độ cao như: xây dựng đường sắt tốc độ cao, tàu điện cao tốc, quản lý và điều hành vận tải đường sắt tốc độ cao...

PGS, TS Nguyễn Hoàng Long, Hiệu trưởng Trường đại học Công nghệ Giao thông vận tải chia sẻ, trường đã hợp tác với 28 đơn vị trong nước và trường đại học nước ngoài để nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ giảng viên; tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học, tọa đàm trao đổi thông tin; cải tiến chương trình đào tạo; trao đổi sinh viên; tiếp nhận sinh viên thực hành thực tập và tuyển dụng việc làm sinh viên.

“Việc nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giảng viên để nâng cao chất lượng đào tạo cũng là chủ trương quan trọng. Nhà trường có nhiều chính sách khen thưởng, hỗ trợ học phí, giảm định mức công tác… để khuyến khích, ủng hộ cán bộ giảng viên đăng ký học tập nâng cao trình độ, như làm nghiên cứu sinh, học thạc sĩ, học tập ngắn hạn… Thời gian tới, nhà trường chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với các trường đại học, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước để đào tạo nguồn nhân lực và triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học”, PGS, TS Nguyễn Hoàng Long nhấn mạnh.

Dự kiến chi phí đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ngành đường sắt tốc độ cao là 486 triệu USD, gồm: nhân sự quản lý, vận hành, bảo trì; cơ quan quản lý dự án; đội ngũ giảng viên các cơ sở đào tạo; các kỹ sư chuyên ngành đặc thù như cơ khí, điện tử viễn thông, tự động hóa...

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.