Đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống

Nhân lực chất lượng cao

Tình hình kinh tế, xã hội cả trong nước và quốc tế đang đặt ra những đòi hỏi rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Nước ta không thể cứ mãi chấp nhận thực trạng lực lượng lao động thiếu tinh nhuệ, kém năng lực như bấy lâu. Từ cơ chế chính sách đến công tác dạy nghề cần phải được đổi mới mạnh mẽ, thực chất hơn, nhằm sớm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, bền vững.

Cần đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ảnh: ĐỨC ANH
Cần đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ảnh: ĐỨC ANH

Mối lo chất lượng lao động

Nguồn nhân lực nói chung và nhân lực lao động chất lượng cao (CLC) được coi là một loại tài nguyên vô hình quan trọng nhất, quyết định đến sự tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực CLC là một trong ba đột phá chiến lược và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2016 - 2020.

Trong những năm qua, việc phát triển nhân lực nói chung, nguồn nhân lực CLC nói riêng phần nào đã đạt được những kết quả tích cực. Mạng lưới giáo dục, đào tạo được mở rộng, quy mô và chất lượng được nâng lên; nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo, thi cử và kiểm định chất lượng có đổi mới; cơ cấu đào tạo hợp lý hơn; đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý có bước phát triển; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 51,6% vào năm 2015… Tuy nhiên, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã thẳng thắn nhận định: “Chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề cải thiện còn chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ thống giáo dục còn thiếu tính liên thông, chưa thật hợp lý và thiếu đồng bộ. Công tác phân luồng và hướng nghiệp còn hạn chế. Đổi mới giáo dục, đào tạo có mặt còn lúng túng. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo khắc phục còn chậm...”.

Là nước đứng thứ ba trong Cộng đồng ASEAN về tỷ lệ lực lượng lao động, nhưng Việt Nam còn nhiều hạn chế bởi hệ quả của việc phát triển nguồn nhân lực lâu nay. Thống kê cho thấy quy mô lực lượng lao động quý IV-2015 đạt 54,59 triệu người, trong đó lực lượng lao động đã qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ chỉ chiếm 20,2%.

Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đánh giá, Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Phần lớn người sử dụng lao động nói rằng tuyển dụng lao động là công việc khó khăn vì các ứng viên không có kỹ năng phù hợp. Về chất lượng nguồn nhân lực, nếu lấy thang điểm 10 thì Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm; xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của WB, trong khi đó, Hàn Quốc đạt 6,91; Ấn Độ, Ma-lai-xi-a và Thái-lan lần lượt đạt 5,76; 5,59 và 4,94...

Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN do Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện cũng cho thấy, doanh nghiệp trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng; gần 50% chủ sử dụng lao động trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần; cử nhân tốt nghiệp đại học dẫu được trang bị những kỹ năng có ích nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Do trình độ phát triển không đồng đều, nên hiện nay lao động có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu di chuyển vào thị trường Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái-lan. Còn lại hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng.

Bên cạnh chất lượng thấp, cơ cấu nhân lực lao động của Việt Nam cũng còn nhiều bất cập lớn. Tính đến quý IV-2015, cơ cấu trình độ của nhân lực lao động Việt Nam là: 01 đại học trở lên/ 0,32 cao đẳng/ 0,61 trung cấp/ 0,37 sơ cấp. Trong khi đó, theo quy luật của thị trường lao động, những người lao động trực tiếp (trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng) phải nhiều hơn rất nhiều lần so với lao động gián tiếp (trình độ đại học). Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam. Tính đến cuối năm 2015, cả nước có 417,3 nghìn người có chuyên môn kỹ thuật bị thất nghiệp (chiếm 39,7%), nhưng người có trình độ đại học trở lên có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất (155,5 nghìn người).

Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp và cơ cấu bất hợp lý là một trong những lý do dẫn đến năng suất lao động thấp. Theo đánh giá của ILO công bố trong năm 2014, năng suất của lao động Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương và ở ASEAN: Chỉ bằng 1/15 so với Xin-ga-po; bằng 1/5 Ma-lai-xi-a và 2/5 Thái-lan, chưa kể so sánh với năng suất lao động của Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ, Niu Di-lân… là những đối tác đã có các hiệp định quan trọng với ASEAN.

Hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), năm 2015 Việt Nam xếp thứ 56/144 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia xếp hạng, so với năm 2014 đã tăng 12 bậc nhưng vẫn xếp sau Thái-lan, Phi-li-pin, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a. Đào tạo và giáo dục đại học vẫn là những yếu tố yếu kém nhiều năm của Việt Nam.

Biến thách thức thành cơ hội

Trước những thách thức nêu trên, để thực hiện thành công việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực CLC, một trong những nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2016 - 2020 như Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra, theo chúng tôi cần phải tập trung vào những giải pháp cơ bản, biến những thách thức thành hành động, biến cơ hội mới thành động lực phát triển. Gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam cũng sẽ gia tăng cơ hội việc làm mạnh mẽ ở những ngành vận tải, xây dựng, dệt may và chế biến lương thực. Qua đó, người lao động sẽ được “cọ xát” khi làm việc ở nhiều nơi, làm tăng tính linh hoạt, khả năng thích ứng với môi trường làm việc đa văn hóa - vốn dĩ là một điểm chưa mạnh. Muốn vậy, trước hết cần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế, tập trung vào việc đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân, phát triển một số cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp (GDNN) CLC đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới; đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan.

Tiếp theo, cần rà soát, điều chỉnh, tổ chức thực hiện tốt các chiến lược, chương trình, đề án của Chính phủ về phát triển nhân lực, phát triển nhân lực CLC như Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020; Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020 và nhiều chương trình, đề án khác.

Trong tổ chức thực hiện, cần ưu tiên vào những nội dung trọng tâm như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đào tạo nguồn nhân lực CLC; sắp xếp, quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở đào tạo CLC, bảo đảm đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển kinh tế đất nước và hội nhập; triển khai áp dụng Khung trình độ quốc gia; đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ chương trình, nội dung, phương thức đào tạo nhân lực CLC. Nội dung đào tạo nhân lực CLC cần được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, nhất là kỹ năng thực hành và làm việc theo nhóm. Tăng cường giáo dục tác phong làm việc chuyên nghiệp, phẩm chất đạo đức để hình thành năng lực nghề nghiệp, nhân cách cho người học; lựa chọn, áp dụng chương trình, tiêu chuẩn và công nghệ đào tạo tiên tiến của khu vực và quốc tế đối với một số cơ sở GDNN CLC trong nước, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng hội nhập quốc tế.

Vấn đề xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo nhân lực CLC theo chuẩn trình độ khu vực và quốc tế trong cả nước cũng cần được chú trọng; có chế độ ưu đãi và hình thức tôn vinh, khen thưởng đối với giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo nhân lực có tay nghề cao tùy theo tính chất công việc, năng lực, theo vùng; chú trọng những nghề trọng điểm cấp độ khu vực, quốc tế; có chính sách khuyến khích nghệ nhân ở các làng nghề tích cực tham gia đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nhân lực có tay nghề cao.

Ngoài ra, cần chủ động, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho các cơ sở đào tạo chất lượng, các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Tiến hành xây dựng khung khổ pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực GDNN CLC. Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, coi trọng việc tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế về chất lượng đào tạo.

Như vậy có thể thấy, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực CLC thật sự là vấn đề quan trọng, đã và đang nhận được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ trong những năm gần đây. Để khắc phục những hạn chế, bất cập của nguồn nhân lực lao động hiện nay, nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế, không chỉ cần sự chung tay của Nhà nước mà của cả các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện tốt các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực, nhân lực CLC và như vậy cũng chính là góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.

Có thể bạn quan tâm