Người gác cổng làng

Chiến tranh kết thúc, ông Sơn buộc chặt một bên tay áo khấp khởi trở về quê. Buông ba-lô xuống chiếc giường đầy bụi, ông thắp nén hương cho mẹ, ấm căn nhà lá tuềnh toàng. 

Minh họa: MINH ANH
Minh họa: MINH ANH

Nhà sát cổng làng, nhìn ra thấy hố bom khoét tận vào sân. Đám muống dại mọc lan thành một hố hoa tím biếc. Ông không lấp lại mà đào rộng ra thành ao nuôi bèo, thả cá. Ao to nhất làng, ai đi làm đồng về cũng dừng lại rửa chân, làm chén nước chè. Những câu chuyện chiến trường được kể lại, nỗi nhớ thương đồng đội còn rơm rớm khóe mắt. Dân làng thương ông, cùng nhau dựng lại ngôi nhà. Ông treo trước nhà một mảnh bom làm kẻng. Cứ sáu giờ sáng gõ kẻng ra đồng. Mười một giờ trưa kẻng lại vang lên. Những khuôn mặt cắm cúi dưới đồng bỗng ngẩng lên, họ giục nhau “muộn rồi, nghỉ tay thôi”. Buổi tối cứ chín giờ là ông đánh kẻng giục bà con nghỉ ngơi để ngày mai còn có sức ra đồng. Có khi là tiếng kẻng báo trong làng có nhà cháy, bò đi lạc. 

Ông sống một mình, lấy việc chung của làng làm niềm vui. Nhà không khi nào thiếu chè, nước sôi trong ấm luôn có sẵn. Ai khát ghé lại uống nước. Ai đói có bắp ngô, củ sắn cầm lòng. Nhà ở cổng làng đón mọi cơn gió to nhỏ thổi vào. Những chuyện buồn vui từ làng truyền ra, bao thứ mới mẻ từ ngoài lan vào ông đều biết hết. Có đôi khi người ta thấy ông ngồi im lặng trước nhà, vai trũng xuống, mắt mông lung xa mờ. Không biết ông đang hoài tưởng quá khứ hay nghĩ ngợi chuyện tương lai. Một tay nâng chén nước chè, một tay áo phất phơ. Biết bao nhiêu chuyện đang diễn ra mỗi ngày trước cổng làng này. Thời thế, thời phải thế…

Bà Hoạch ra bó đống cành đa khô về làm củi. Ông Sơn thở dài bảo:

- Củi này chưa đốt đã khói cay cả mắt. Rồi chẳng biết làng còn lại những gì?

- Biết làm sao được. Muốn đô thị hóa nông thôn thì cũng phải mất mát đi vài thứ. Đời này có thứ gì mà không phải trả giá đâu ông.

Dẫu biết vậy nhưng ông vẫn khó chấp nhận trước đổi thay như muốn bức tử hồn quê. Cây đa không còn, cổng làng đã mất. Đến đình làng cổ mấy trăm năm người ta cũng dỡ đi để xây đình bê-tông mới. Đầu rồng, thân phượng vứt lăn lóc một xó. Mấy ai còn thương tiếc cho đầu dư, tai cột, ván nong được chạm nổi, chạm lộng, chạm bong điêu luyện. Giờ đình khác quá, có khi nào thành hoàng cũng ngơ ngác hay không? 

Câu hỏi ấy cứ vang vọng trong ông những ngày này. Hồn ông như đã theo gốc đa bị người ta bứng đi đâu mất. Gốc đa ấy đã sừng sững đi qua bom đạn chiến tranh. Người trong làng ai cũng tin rằng dù có trải qua bao biến cố thăng trầm, cây đa còn là làng còn. Vậy mà mảnh hồn làng giờ cũng nhường chỗ cho người ta mở rộng con đường chạy qua làng. Hôm người ta cưa bớt cành đa để đào gốc mang đi, ông thấy gió thốc vào tim, thông thống. Dưới cây đa ấy ông từng dang tay ôm choàng lấy mẹ trước ngày ra chiến trường. Sau chiến tranh, cánh tay còn lại của ông vẫn đưa ra đón biết bao người lính còn may mắn sống sót trở về. Có người về ngay sau giải phóng. Nhưng có những cuộc trở về phải mất rất nhiều năm. Hai người thương binh nhìn nhau, rưng rưng bởi chiếc nạng gỗ, đôi tay bị cụt. Đón nhau ở đầu làng có khi chỉ còn là chiếc bình đựng tro cốt được bọc trong lá cờ đỏ sao vàng. Ông chứng kiến nhiều cuộc hội ngộ lặng im qua cổng làng này. Trong đó có cuộc gặp gỡ đã trở nên định mệnh. 

*

Đêm ấy Giao thừa. Mình ông chìm đắm trong bóng tối và khói hương cô quạnh. Tiếng pháo trong làng thưa dần. Ngồi ngả người ra ghế nhớ những cái Tết có mẹ trong đời. Bỗng ông nghe thấy tiếng khóc đâu đó. Ban đầu ông nghĩ mình nhầm. Nhưng tiếng khóc càng lúc càng to hơn, nức nở. Ông chạy ra ngoài thấy người đàn bà bụng mang dạ chửa đang ngồi khóc dưới gốc đa. Hỏi qua mới biết người đàn bà chửa hoang, vì không chịu được tai tiếng nên bỏ làng ra đi. Đi mãi đến nơi này kiệt sức dừng chân, nếu không gặp ông thì có khi đã nghĩ quẩn liều mình. 

Ai ngờ đó lại là người đi cùng ông suốt quãng đời còn lại. Sau này thỉnh thoảng bà vẫn nhắc với Thuận về cái đêm Giao thừa năm ấy. Chỉ một câu nói của ông đủ cứu vớt cuộc đời của mẹ con bà: “Nhà tuy nghèo nhưng rộng. Nếu không có nơi nào để đi thì cô cứ nán lại nơi này”. Rồi đứa nhỏ ra đời, lớn lên bằng sự bao bọc của làng. Đứa nhỏ ấy giờ cũng đã gần bốn mươi tuổi, đã lấy vợ sinh cho ông ba đứa cháu đáng yêu, bụ bẫm. “Hiệu may bà Hoạch” cũng tồn tại được mấy chục năm rồi. Cũng một thời hiệu đông khách đến mức bà phải thức đến khuya để kịp trả đồ. Nhờ sự khéo léo của bà, sự chăm chỉ cần mẫn của ông mà xây được căn nhà, nuôi cậu con trai ăn học đàng hoàng. Nhưng giờ quần áo may sẵn bán đầy, đủ các loại mẫu mã, giá cả cạnh tranh. Chỉ cần ở nhà bấm smartphone là đặt hàng online ship tận chân giường. Thành ra hiệu may của bà ngày càng thưa khách. Chỉ những người trung tuổi ưa đường kim mũi chỉ thẳng thớm, chắc bền mới tìm đến bà. Túc tắc cũng đủ tiền chợ búa cơm canh. Ông thì chăm mấy sào rau, nuôi đàn vịt trăm con lấy trứng. Làng này ai cũng quý cái nết chăm chỉ của ông, cánh tay còn lành lặn cứ thoăn thoắt hết việc này đến việc kia không chịu nghỉ. Ông cười bảo: “Yên tâm, tay tôi còn khỏe. Còn gõ kẻng nhắc bà con gieo mạ, bón phân hết chiêm xuân lại đến vụ mùa”. 

Chiều muộn từ đồng trở về nhà, ông ngồi ở đầu hè nhìn mông lung ra phía cổng làng. Cái cổng làng thân thuộc ấy ông chỉ còn nhìn thấy bằng ký ức. Nét bình yên vốn có của làng quê cũng đang dần xáo trộn. Hai năm trước, cơn sốt lan đột biến xuất hiện ở làng. Người này rỉ tai người kia, đồn thổi nhau một kie lan đột biến (đốt lan được cắt ra để bán giống) có giá cả tỷ đồng. Con trai ông đang công ăn việc làm tử tế dưới thành phố tự dưng bỏ về quê ôm mộng chơi lan. Thuận xin bố mẹ cho mượn sổ đỏ cắm ngân hàng lấy vốn mua kie giống và thiết kế vườn lan. Ông không đồng ý vì chẳng tin vào thứ gì giàu xổi. Ông cũng không biết hoa lan ngoài ngắm ra còn để làm gì mà người ta sẵn sàng bỏ cả vài chục tỷ đồng để mua? Ông nghi ngờ nó là thứ cạm bẫy của lòng tham, nhưng lại không đủ sức để ngăn cản Thuận. 

Thuận chạy vạy vay mượn khắp nơi nuôi ước mộng làm giàu. Người người, nhà nhà chơi lan. Người giàu thì đầu tư vườn lớn. Người nghèo thì mua một vài kie chăm bẵm rồi bán lại. Ai cũng thấy cái lợi trước mắt mà hoa hết mắt, thằng Thuận con ông cũng vậy. Nó cả gan vay lãi nặng rồi đi các vườn lan lớn học hỏi kinh nghiệm và mua giống. Ban đầu thấy bán được hàng, Thuận lại càng ham đổ vốn thêm. Sau này lan đột biến vỡ trận thì con ông chạy không kịp nữa. Có nhiều giỏ lúc trước có giá cả trăm triệu đồng giờ mang bán rẻ cũng chẳng người mua. Vườn lan vẫn ra hoa nhưng lòng người thì héo rũ. Bao nhiêu tiền ông bà tích cóp dành lúc đau ốm tuổi già cũng không đủ trả một phần nợ nần. Ông bà đã phải cắt hai thổ đất bán đi để đắp đậy. Đất dạo này cũng đắt. Những người lãi lớn từ lan lại dồn tiền thu gom hết đất làng. Nghe chừng lại một cơn sốt nữa lên ngôi. 

Ông ngồi nhìn những thanh niên choai choai xăm trổ phóng qua nhà nẹt pô ầm ĩ. Trước giờ ông đâu có nghĩ đến một ngày làng quê sẽ đổi thay nhiều thế. Mấy dự án đang nuốt dần đi những cánh đồng xanh mướt. Phố xá mọc lên ở làng quê bằng karaoke, mát xa, bia ôm, thẩm mỹ viện, xăm tattoo. Có tiền từ đất người ta bắt đầu học đòi thành phố, tính mộc mạc quê nhà ít nhiều đã đổi thay. Tiếng kẻng của ông có khi chẳng còn mấy ai nghe thấy. Ông sống đến tuổi này nhìn cháu con lao đao vì những giá trị ảo mà lòng không khỏi xót xa. Rồi đây các cháu ông lớn lên không biết có còn lưu luyến những giá trị truyền thống hay không. Bà Hoạch bảo:

- Ông lẩm cẩm quá rồi. Dù muốn hay không thì cuộc sống sẽ ngày một khác đi. 

- Dạo này tôi rất hay mơ thấy cảnh cũ người xưa. Thấy mẹ áo nâu sòng, khăn mỏ quạ đi bắt tép bắt tôm. Nắng mệt, mẹ ngồi nghỉ dưới gốc đa, miệng nhấm cỏ chè may bám đầy ở gấu quần. Tôi cũng mơ thấy mình đang chạy chơi ở sân đình, lá đa rụng trên mái đầu thơ nhỏ. Ừm, bà nói đúng. Chắc là tôi lẩm cẩm quá rồi. 

*

Bóng tối đang dần buông xuống bao phủ lấy làng. Khu công nghiệp mới gần nhà đã đến giờ tan ca, tỏa ra khắp nẻo đường. Mấy đứa cháu chạy ùa lại ôm vai bá cổ ông. Những nụ hôn bé bỏng của lũ nhỏ khiến ông thấy lòng mình vui trở lại. Mâm cơm đã dọn ra, mùi cá kho tương thơm đến cồn cào. Con dâu vừa xới cơm vừa bảo:

- Vợ chồng con đang tính đi làm trở lại. Anh Thuận xin vào khu công nghiệp làm điện nước. Con thì tính buôn bán lặt vặt trước cổng khu công nghiệp. Nhà mình có rau bán rau, có trứng bán trứng. Chiều bán thực phẩm, sáng thì bán đồ ăn sáng. Công nhân ngày càng đông, chẳng lo không bán được.

- Bố thấy con tính thế là đúng. Cứ năng nhặt chặt bị. Kiếm tiền lẻ nhưng có giá trị thật còn hơn thứ tiền tỷ giá trị ảo lừa lọc lẫn nhau. Bố sống đến tuổi này chưa từng thấy có đồng tiền nào lại dễ dàng kiếm được. 

Lâu lắm ông mới được ăn bữa cơm ngon đến thế. Có lẽ vì thấy con cái đã bước qua thất bại để tính chuyện làm ăn vực lại từ đầu. Bà nói đúng, đâu có sự đổi thay nào mà không ít nhiều mất mát. Nhưng ông vẫn muốn tin rằng, làng quê dù đổi thay thế nào thì vẫn đủ bao dung cho tất cả phận người.