Khắc khoải một vùng than

Quảng Ninh, “thủ phủ” của sản xuất than khu vực phía bắc, đến giờ vẫn còn bàng hoàng với những tổn thất mà cơn mưa lũ lịch sử hồi tháng tám để lại. Không thể phủ nhận được những đóng góp to lớn của ngành than đối với phát triển kinh tế xã hội, nhưng mặt khác, “sự nổi giận” của thiên nhiên đã trở thành hồi chuông cảnh tỉnh - dù muộn còn hơn không, phải có được cách thức quy hoạch, khai thác than bền vững hơn.

Đập mang tên 790 được gia cố để tiếp tục gồng mình phục vụ bãi thải Đông Cao Sơn. Ảnh: Minh Quyết
Đập mang tên 790 được gia cố để tiếp tục gồng mình phục vụ bãi thải Đông Cao Sơn. Ảnh: Minh Quyết

Kỳ 1: “Thung lũng nhân tạo” mang tên Mông Dương

Dân Mông Dương (Cẩm Phả - Quảng Ninh) gọi bãi thải Đông Cao Sơn là “núi TKV”. Với các cán bộ của Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV), núi ấy được gọi bằng tên “nho nhã” hơn: khu vực quy hoạch đổ chất thải khai thác than. Nhưng dù với tên gọi gì, thì đây cũng “bị” xem là nguyên nhân trực tiếp gây ra trận lũ kinh hoàng cuối tháng 8 vừa qua.

Sống trong “ống nước…”

Từ cầu Bãi Cháy của TP Hạ Long, có thể nhìn rõ những bãi thải của các công ty than, như Hà Tu, Núi Béo, Hà Lầm, Hòn Gai… vây quanh thành phố. Ngồi trên chuyến xe đến Cẩm Phả, từ xa có thể thấy, “núi TKV” khổng lồ lừng lững ngay trung tâm thành phố. Độ cao, độ dài của nó vượt tất cả những ngọn đồi trong khu vực. Đó là “quả bom” tiềm ẩn hiểm họa cho đời sống người dân và gây ô nhiễm môi trường từ nhiều năm rồi - lời ông Đỗ Ngọc Thắng, Trưởng khu dân cư số 4 phường Mông Dương.

Ngạc nhiên thay, cả cán bộ địa phương và người dân Mông Dương đều không rõ bãi thải Đông Cao Sơn quy mô cụ thể như thế nào? Ngay Phó Chủ tịch UBND phường Mông Dương, ông Dương Ngọc Lự cũng chỉ ước lượng bãi thải này cao “khoảng” 300 m, chạy dài vào “khoảng” 5.000 m, dọc theo khai trường của một loạt các mỏ than thuộc thành viên TKV, như Cao Sơn, Cọc Sáu, Đèo Nai, Dương Huy… Hỏi đến việc bãi thải Đông Cao Sơn ước tính dung tích khoảng bao nhiêu triệu m3 đất, đá thải từ hoạt động khai thác các mỏ than đổ ra thế nào, thì ông Lự… bó tay! Những người dân Mông Dương cũng vậy. Chúng tôi cứ hỏi, và đều không nhận được câu trả lời. Chẳng biết vì câu hỏi khó hay lý do “tế nhị”?

Ông Đinh Thái Bình, Trưởng phòng kỹ thuật của công ty CP than Cọc Sáu phân trần: Hoạt động đổ thải vào khu vực này đã có từ hàng chục năm trước! Đến năm 2013, công ty than Cọc Sáu mới “được” giao và quản lý khu đổ thải cho đến nay. Thế nên, khu vực ấy chứa bao nhiêu trăm triệu m3 đất, đá từ hoạt động khai thác của các công ty than nào ở khu vực, thì ông Bình không trả lời được. Cái mà vị trưởng phòng này nắm rõ là: Năm 2015, công ty Cọc Sáu dự kiến sản xuất khoảng 3,4 triệu tấn than, tương ứng với việc phải bóc, xúc khoảng 36 triệu m3 đất, đá đổ thêm vào “quả núi” ấy…

“Hiện độ cao khu đổ thải đã lên tới cốt +290m, còn 10m chiều cao nữa mới đến ngưỡng theo giấy phép của tỉnh Quảng Ninh cấp. Sau giai đoạn này, đất, đá thải sẽ được quy hoạch (QH) đổ vào khu vực các khai trường đã khai thác hết than!” - Ông Bình coi đây vừa như là biện pháp chấm dứt việc đẩy cao ngọn núi chất thải, vừa để hoàn nguyên môi trường cho những hoạt động khai thác.

Nhưng, cũng có cách để phần nào hình dung ra được khối lượng khổng lồ của khối chất thải mà TKV và các công ty than tạo ra. Một chuyên gia ngành than làm phép tính “tắt” cho dễ hiểu: Để có một tấn than nguyên khai, các công ty than phải bóc, xúc khoảng 10-13 m3 đất, đá. Và cứ 10 triệu tấn than thương phẩm sẽ “cho ra” từ 100-130 triệu m3 đất, đá thải. Tại Mông Dương, theo ông, chỉ riêng các công ty thành viên TKV mỗi ngày đã đổ vào núi Đông Cao Sơn bình quân khoảng 80 nghìn m3 đất, đá. Cứ thế mà nhân lên với “lịch sử” thời gian đổ thải từ hàng chục năm nay…

Nhìn trên bản đồ phường Mông Dương, khu quy hoạch đổ thải từ hoạt động khai thác than nằm giữa khai trường các công ty than, hình thành vòng cung dọc theo các quả đồi đang ôm lấy khu dân cư. Hệ thống thoát nước cho bờ phía Bắc và Đông Bắc của quả núi phụ thuộc vào hai suối +9.8 và suối H10, đều thuộc phường Mông Dương. Trong đó, suối +9.8 lại đổ vào suối H10. Nên, cơ bản, có thể thấy suối H10 là tuyến chính “gánh” toàn bộ trách nhiệm thoát nước cho phần núi chất thải hướng ra Mông Dương. “Đáng lo ngại hơn, hàng chục triệu m3 đất thải của TKV tích tụ suốt mấy chục năm qua vẫn nằm sừng sững trong lòng TP Cẩm Phả, nơi có hàng chục vạn dân sinh sống. Đặc biệt, sự an toàn của núi thải Đông Cao Sơn chỉ được bảo vệ bởi con đập èo uột mang tên: đập chắn chất thải 790, vốn luôn trong tình trạng nguy cơ bục vỡ”- một vị trong đoàn Bộ Xây dựng đi kiểm tra bãi thải Đông Cao Sơn đã phải thốt lên như vậy.

Quả thực, phần lớn phố xá, nhà cửa của dân Mông Dương lại nằm dọc hai bên suối H10, tức là nằm ngay dưới hạ nguồn thu gom nước cho “núi TKV”. Phải chăng, TKV hay tỉnh đã thiết kế đường thoát nước cho khu chứa chất thải trên cơ sở dựa vào và sử dụng điều kiện thoát nước tự nhiên chung với khu dân cư? Kiểu thiết kế này dường như đã “mặc định” đưa khu vực dân cư Mông Dương, vốn đã nằm giữa thung lũng các quả đồi, vào trong “ống thoát nước” của núi chất thải và phụ thuộc hoàn toàn vào sự “èo uột” của đập chắn 790. Tất nhiên, bản quy hoạch, thiết kế này phải có… tính toán!

“Hay” đến đau đớn, cái cách “quy hoạch trên trời” đó! Chỉ sau bốn ngày (từ 26 đến 31-8), lượng mưa lớn và lũ chất thải từ “núi TKV” đổ xuống hạ lưu đã khiến hai con suối chính H10 và +9.8 bị lấp kín. Mặt bằng khai trường, sàn công nghiệp, kho tàng, nhà cửa của công ty than, người dân Mông Dương chìm sâu dưới bùn đất từ 1,2 đến 2 m…

Lỗi tại… ông Trời!?

Trận lũ “lịch sử” ngày 26-8-2015, tiếc thay, không phải thảm họa lần đầu do “núi TKV” gây ra. Còn nhớ, trưa 31-7-2006, mưa lớn và kéo dài trong cơn bão số 3 đã làm vỡ đập Khe Dè, khiến đất đá từ bãi thải của công ty CP than Cọc Sáu đổ xuống khu 12 (phường Cửa Ông, TP Cẩm Phả). Hậu quả là sáu ngôi nhà bị san phẳng, hai héc-ta đất vườn đồi bị nhấn chìm. Toàn bộ 15 hộ dân may mắn thoát chết, nhưng lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, mất sạch tài sản…

Nhưng, những cán bộ của TKV và tỉnh Quảng Ninh vẫn… ngạc nhiên trước hậu quả của đợt mưa lũ “lịch sử” kéo dài vừa qua. Trong lần trả lời báo chí mới đây, Phó Tổng Giám đốc TKV Vũ Anh Tuấn cho rằng, việc khai thác than, đổ thải đất, đá đã tuân thủ đúng quy hoạch, giấy phép khai thác, thiết kế mỏ… Còn ở than Cọc Sáu, ông Đinh Thái Bình khẳng định: Khu bãi thải Đông Cao Sơn được thiết kế bởi Công ty CP Tư vấn Đầu tư mỏ và Công nghiệp với những dữ liệu quan trắc thời tiết, quan trắc dung tích, hệ thống tiêu thoát nước... và đã được tỉnh phê duyệt. Theo đó, việc thoát nước khu bãi thải Đông Cao Sơn được thiết kế để chịu được lượng mưa lên tới 300-350 mm/năm, tức là vượt 30% so với lượng mưa trung bình theo số liệu quan trắc, thống kê lượng mưa lớn nhất trong vòng 40 năm. Thế mà…

Trong vòng có vài ngày, lượng mưa trung bình đã lên tới hơn 400 mm/ngày, vượt xa khả năng tiêu thoát đã tính toán tại thiết kế bãi thải Đông Cao Sơn. Các lãnh đạo của TKV và tỉnh Quảng Ninh “thống nhất” gọi đây là lượng mưa “lịch sử”, chưa từng có trong 40 năm qua. Chữ “lịch sử” này, vô hình trung, lại khỏa lấp đi nguyên nhân thực tế là do chính con người tạo ra. Chưa kể, dù đã cho phép quy hoạch “tạo” ra bãi chất thải khổng lồ hàng trăm triệu m3, nhưng sau nhiều lần “họp lên họp xuống”, tỉnh Quảng Ninh và TKV vẫn chưa “giải quyết dứt điểm” được phương án an sinh cho dân. Cả 100 hộ dân ở hạ nguồn suối H10 vẫn chưa được di rời khỏi vùng thoát nước của ngọn núi ấy, suốt ngần ấy năm…!? Để tìm hiểu rõ vấn đề này, chúng tôi đã nhiều lần liên hệ làm việc với lãnh đạo TKV, nhưng cũng chỉ nhận được những lời... “hẹn lên hẹn xuống”.

Điều tra thêm, chúng tôi được một cán bộ UBND phường Mông Dương đưa ra một lý do khác: Từ năm 2008, TKV đã xây một khu tái định cư (sau đó được bàn giao về tỉnh) để phục vụ di dân mở rộng khai thác than trong khu vực. Nhưng, người dân chưa chấp nhận, vẫn muốn chờ được đền bù giá cao để tự tìm nơi ở mới. Tuy vậy, còn một lý do “phụ” nữa, ấy là vị trí khu tái định cư hiện nay đang bị “bao vây các mặt”, nào là công trình băng tải than chạy qua; đường điện 500 KV, đường công vụ khai thác than và dày đặc các mỏ than, bãi thải... Thế nên, người dân không muốn thay đổi nơi ở cũ nhiều rủi ro bằng nơi ở mới vừa ô nhiễm và cũng rủi ro không kém ấy!

Người dân chưa muốn di chuyển, thì cơ quan chức năng dường như cũng “chần chừ”… cùng dân! Và thế là hiểm họa từ những “quả bom” bãi thải như kiểu “núi TKV” Đông Cao Sơn cứ treo “thường trực” phía trên “thung lũng nhân tạo” Mông Dương. Cái sự chần chừ này, chắc cũng là… do “ông Trời” nốt, vì tới tận 40 năm trời… mới có một trận mưa “lịch sử”, đúng kiểu “trôi nhà, chết người” như thế...!

(Kỳ 2: Gốc rễ là công tác quy hoạch, quản lý)

Phóng sự của LÊ ĐỨC NGHĨA - TRƯƠNG QUỐC

Có thể bạn quan tâm