Bấy lâu nay nhiều người thường quan niệm lễ hội được chia tách thành hai phần là 'lễ' và 'hội'. Thế nhưng trong quá khứ, các sự kiện văn hóa, tín ngưỡng nói chung được tổ chức với quy mô lớn trong từng vùng vốn chỉ được gọi chung là hội. Thí dụ: hội chùa Hương, hội Gióng, hội Giã La, hội Lim, hội Ðền Và, hội Chợ Viềng, hội Ðền Sái.., kèm theo đó là khái niệm đi 'trảy hội'.
Thời cổ truyền, lễ hội là một sự kiện gia tăng tính cố kết cộng đồng làng xã với sợi dây bền chặt là văn hóa tâm linh tín ngưỡng. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ hội giao lưu văn hóa, thương mại của người dân tứ xứ. Thế nên nhiều lễ hội có tổ chức những hình thức vui chơi giải trí đi kèm, gắn bó với sinh hoạt tín ngưỡng chung. Ví như trò thi vật ở nhiều hội làng, theo thông lệ, các đô vật cao niên trong làng sẽ phải làm lễ vật thờ ở sân đình tế thành hoàng làng trước, sau nghi lễ đó cuộc chơi chính thức mới được phép bắt đầu. Hay các gánh chèo, tuồng thời xưa được mướn đến biểu diễn tích trò phục vụ ngày hội cũng dựng rạp nơi sân đình và buộc phải dâng hương hành lễ trước khi ra trò... Hoặc trò thi thổi cơm, làm bánh..., sản phẩm cuộc thi bao giờ cũng được chọn lựa để dâng cúng thánh thần. Như thế, cần hiểu sự vui chơi giải trí trong các hội làng luôn gắn liền với chu kỳ hoạt động nghi lễ như một thành tố hữu cơ, khó có thể tách rời. Bên cạnh đó, sẽ thấy không phải bất cứ lễ hội cổ truyền nào cũng có phần vui chơi giải trí gắn liền. Thế nên việc chia tách kiểu phần 'lễ' và phần 'hội' sẽ không phù hợp với tất cả các lễ hội! Và, lễ hội cần được hiểu như một danh xưng phiếm chỉ tương đương với khái niệm hội mà thôi.
Các lễ hội cổ truyền thường sinh hoạt theo chu kỳ cây trồng và chu kỳ cộng đồng, biểu hiện hình thái tôn giáo, tín ngưỡng dân gian ở từng vùng miền. Các hội thường gắn bó với từng địa danh cụ thể hay những thiết chế tâm linh xác định như đình, đền, chùa... Dù muôn hình vạn trạng, nhưng tựu trung các lễ hội đều được xem như lễ thức tín ngưỡng thể hiện nguyện ước của cộng đồng dân sinh cầu mong một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Từ nửa cuối thế kỷ 20 trở lại đây, với bối cảnh lịch sử văn hóa xã hội chuyển mình qua giai đoạn giải cấu trúc, đại đa số hình hài lễ hội cổ truyền đều chịu ảnh hưởng sâu nặng sự biến đổi của thời cuộc. Hiện tượng mai một, đứt gãy hay tan vỡ là điều dễ thấy ở cả hình thức lẫn nội dung. Có người gọi đó là sự 'giải thiêng', khiến cho nhiều lễ hội ngày nay chỉ còn nặng về hình thức và có khi thiên về tính thương mại.
Có khá nhiều vấn đề cần phải bàn về thực trạng lễ hội. Như bản sắc văn hóa trong mỗi lễ hội, sau nhiều chục năm đứt quãng, hiện tượng 'tam sao thất bản' hay bắt chước lẫn nhau, cũ mới lẫn lộn là điều khó tránh khỏi. Hiện nay, ở nhiều nơi, từ trang phục, cờ quạt, đoàn rước... đến các trình thức nghi lễ, nhạc lễ thường được đánh giá là khá nhạt nhòa. Ví như nhạc lễ tế đình vốn là thành phần quan trọng trong các nghi thức, sau nửa thế kỷ vắng bóng nay cũng không còn được bao nhiêu phần tinh hoa. Trong quá khứ, đây vốn là một thể loại cổ nhạc độc lập, có tính nghệ thuật khá cao. Ngày nay trong nhiều hội làng, có những dàn nhạc chỉ còn thuộc mỗi bài Lưu Thủy và dùng suốt cả buổi lễ. Bên cạnh sự mai một, tâm lý 'phát triển', 'cải biên, cải tiến' làm mới theo thời cuộc kiểu 'hiện đại hóa' cũng ảnh hưởng sâu nặng đến hình hài lễ hội thời nay. Có thể coi hình ảnh pha trộn giữa áo dài khăn đóng kiểu cổ truyền, kiểu cải biên diêm dúa với vành khăn 'Nam phương Hoàng hậu', song hành cùng com-lê, cà-vạt, áo dài tân thời, bộ cánh cựu chiến binh cùng các bộ đồ thể thao viền sọc hay mũ kê-pi của đội diễu hành... như một biểu tượng đời mới trong những lễ hội hiện hành. Thế nên nhiều người thường nhận ra sự 'na ná giống nhau' giữa các lễ hội là vậy.
Trong các đối tượng thánh thần được phụng thờ tôn vinh ở lễ hội, có những vị là thiên thần, nhiên thần hay những anh hùng dân tộc, có công với sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc, khai hoang lập ấp, những anh hùng văn hóa tài cao đức trọng, những vị tổ nghề có công với cộng đồng dân sinh... Nhưng nhiều khi đối tượng thờ phụng chỉ đơn giản là những nhân vật hết sức bình thường, thể hiện nỗi sợ hãi của cộng đồng cư dân xưa trước sự đe dọa của các thế lực hắc ám hay trước sức mạnh của thiên nhiên... Có những huyền tích kiểu nhân vật được thờ phụng lúc sinh thời vốn là trộm, cướp bị dân làng đánh chết, sau đó được 'xem như' tắt thở vào 'giờ thiêng' (thường biểu hiện ở chuyện mối đùn xông lên thành mộ), về sau 'linh ứng' gây tai ách, dịch bệnh hoặc giả phù trợ cộng đồng nên được tôn làm thánh thần để phụng thờ, tế lễ hằng năm. Và, có 'ngài' vốn là tướng cướp, nên lễ tế bao giờ cũng diễn ra trong đêm (vì trộm cướp phải đi đêm).
Thông thường, mọi biểu hiện cầu xin - trao gửi - đón nhận tưởng tượng ở tôn giáo tín ngưỡng nói chung đều ít nhiều thể hiện nguyện ước tài lộc của từng cá thể và đương nhiên khó tránh khỏi tính vụ lợi, thực dụng. Có hiểu điều đó, mới lý giải được cái hiệu ứng tâm lý đám đông cuồng tín trong các ngày hội đầu xuân. Ở đây, ranh giới giữa lòng thành kính tín ngưỡng, văn hóa tâm linh dân tộc và tính mê muội, lãng phí phô trương nhiều khi khá mong manh. Hiện nay, việc gia tăng quá tải số lượng người đi hội là điều không thể tránh khỏi. Trong đám đông, sự chen lấn xô đẩy cùng nhiều tệ nạn xã hội đi kèm dường như là điều bất khả kháng. Với lượng người rất lớn đổ dồn về một địa bàn nhỏ hẹp, nguy cơ thảm họa đám đông giẫm đạp nhau đến trọng thương, chết ngất như chuyện khai ấn đền Trần (Nam Ðịnh) mấy năm qua là điều khó tránh khỏi.
Trong một xã hội văn minh hiện đại, tất cả những hiện tượng bất ổn về an ninh xã hội cũng như xâm hại đến sức khỏe, tính mạng con người rõ ràng là vấn đề cần phải được cân nhắc. Bảo lưu phong tục lễ hội quả là một bài toán khó và hoàn toàn trông đợi vào vai trò quản lý nhà nước, đặc biệt khi các lễ hội hiện nay đã được du lịch hóa, thương mại hóa trong xu thế tất yếu của thời đại phát triển kinh tế.
* Một nghiên cứu của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam gần đây cho thấy, người dân đánh giá về lễ hội làng như sau: 1/ giữ gìn truyền thống văn hóa của làng (75,6%); 2/ là dịp để vui chơi, gặp gỡ (61,3%); 3/ để gắn bó các thành viên trong làng (58,3%); 4/ là dịp bày tỏ lòng biết ơn đối với người có công với làng (49,1%); 5/ là dịp cầu tài, cầu lộc (35,7%); 6/ là dịp các dòng họ thể hiện (26,6%); 7/ là dịp khẳng định danh tiếng của làng (25,8%); 8/ là dịp cầu ước sở nguyện riêng (21,1%). Như vậy, khi người dân còn quan tâm đến việc giữ gìn truyền thống văn hóa của làng mình (cộng đồng mình), thì rõ ràng lễ hội truyền thống giúp chúng ta xác định và củng cố bản sắc văn hóa Việt Nam.
TS Bùi Hoài Sơn (Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam)