Gác bếp

Xưa nay, tinh ý cứ nhìn vào cung cách đun nấu là sẽ biết tính người, cho dù bếp nay đã khác xa bếp xưa. Bếp xưa những tro trấu, củi đuốc, rơm rạ, người cẩn thận, gọn gàng, nấu xong đứng lên là quét tước cẩn thận, sạch tinh. Người đoảng có khi để lửa loang đến cháy bếp, cháy nhà. Lại có khi gà vào bới tứ tung, niêu tôm cho đến nồi cơm nguội cũng sạch bách với đàn gà đang mọc cánh, diều lúc lỉu phía trước.

Bếp xưa luôn có mùi vị và mầu sắc đặc biệt của tro khói, của mùi thức ăn. Ngày mấy lần đỏ lửa thì bấy nhiêu lần khói bay lên tan vào nắng gió, tan vào sương và bóng tối. Khói đọng lại thì đậu cả trên cái “gác bếp”. Tôi nhớ cái gác bếp nhà mình khi xưa và câu ca:

Khói về đằng kia ăn cơm với cá

Khói về đằng này lấy đá đập đầu.

Có khi chẳng vì khói toét mắt chỉ cần trông thấy khói, trẻ con đã nhao nhao đua nhau “sướng” lên câu ấy.

Phải nói rằng chính mùi khói và cái gác bếp đen kịt đã  khiến căn bếp “huyền diệu” hơn trong mùi thơm của cá kho, cơm gạo mới, xôi nếp hay mùi giả cầy của một hôm nhà được ăn tươi. 

Không quan trọng như ông đầu rau hay kiềng, không nhất thiết phải có như củi đuốc, rơm rạ, chạn bát, nồi niêu... nhưng cái gác bếp khiến cho bếp nhà xưa ấm cúng hơn và khiến gia chủ yên lòng hơn vì những gì chất trên gác bếp. Gác bếp có “cấu tạo” đơn giản, thường thì là những tấm phên được buộc  tay, hay đóng đinh từ những tay tre đực, những khúc tre ngâm dài ngắn, sau khi làm nhà, làm bếp còn lại được chẻ ba, chẻ tư gióc kỹ đóng thành. Có khi gác bếp cũng được đóng bằng những thanh gỗ nhặt nhạnh từ rác của những xưởng mộc, hay những thanh gỗ phá ra từ các hòm hàng. 

Nhớ khi tiễn người về xuôi, biết bao giờ gặp lại, mặt em gái buồn thiu, má ửng hồng e thẹn. Còn bà thì dặn: Măng để gác bếp cho khô, chứ không hong khói già, măng sẽ chát, sẽ đắng. Mộc nhĩ, nấm hương treo cạnh bếp thôi cũng không được gác bếp  mà mất mùi và khô quắt đấy. Lửa vẫn cháy vàng, than thì đỏ ửng. Người em gái nhỏ ngồi mãi chưa thể rời bếp đi ngủ. Khói đậu trên gác bếp kia, đậu vào mạng nhện mà thành bồ hóng. Đường đất xa ngái, ngọn khói mong manh, ai dám hy vọng hay ước mong gì, nhưng cũng khó lòng mà bảo trái tim thôi đừng nhớ...

Trẻ con chẳng còn biết gác bếp là gì, khó có thể phân biệt được thúng, mủng, nong, nia, hay giần, sàng nữa. Chỉ có người lớn, đám hoài cổ, hay nhớ nhung, thấy đồ mỹ nghệ quang dầu đẹp thì có đẹp nhưng không ưng, mà cứ nhớ cái rổ, cái rá gác bếp, khi xóc gạo đồ xôi mùi gạo nếp, mùi rá vo cứ quện vào nhau, mới thế đã thấy cỗ bàn, giỗ chạp, thấy ấu thơ của mình gắn bó với những nghi lễ trong nhà, ngoài làng. Tôi nhớ cái gác bếp nhà tôi, bà tôi cất bao nhiêu thứ trên đó, lượm rơm thì để mé ngoài, tôi phải kiễng chân mới lấy xuống được. Tôi dấp nước đem ra ruộng màu, nhổ từng cây cải, bó thành bó, đầy rổ thì đem bán ngoài phố làng mỗi chiều mùa đông năm nào. Rổ rau hết, tôi khoác cái rổ còn lấm đất lên vai, trở về nhà. Có lần bị dằm đâm vào ngón tay đau buốt. Tôi sà vào bếp lửa, bà tôi ngồi kho cá lửa liu riu mà căn bếp ấm sực. Bà khời lửa cho sáng, rồi lấy kim nhể rằm cho tôi. Mắt bà tôi  còn tinh, nhể được ngay. Gió lùa, có dây bồ hóng rơi xuống vai áo bà. Bà tôi thơm thơm mùi trầu vỏ.

Những tưởng mọi điều đã xa hút, mà không phải, bà dạy tôi cách cất mọi điều vào trái tim, nên còn cả đây. Và tôi đã kể, dẫu bếp nhà và những cái gác bếp chẳng còn như xưa...