Đưa tri thức ra khỏi “tháp ngà nghiên cứu”

Năm 2015, dư luận trong nước đề cập khá nhiều đến sức sáng tạo trẻ; trên diễn đàn Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII, các Đại biểu Quốc hội cũng có nhiều câu hỏi chất vấn lãnh đạo các bộ, ngành chức năng về cơ chế đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ (KH-CN). Theo đó, một trong những yêu cầu bức thiết đặt ra là phải làm sao đưa tri thức sáng tạo khoa học vào thực tiễn? Và việc đầu tư xây dựng mô hình trung tâm công nghệ cao được coi như “khâu đột phá”, đòi hỏi phải được nghiên cứu, học tập kinh nghiệm nghiêm túc từ các nước phát triển.

Trong giai đoạn mới, mô hình liên kết “ba nhà”: nhà trường - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp cần được xây dựng hiệu quả. Ảnh: VIỆT CƯỜNG
Trong giai đoạn mới, mô hình liên kết “ba nhà”: nhà trường - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp cần được xây dựng hiệu quả. Ảnh: VIỆT CƯỜNG

Trung tâm công nghệ ở Việt Nam

Ở nước ta, vấn đề làm sao có thể sáng tạo/chuyển giao tri thức để áp dụng thiết thực trong cuộc sống luôn là chủ đề thu hút quan tâm của dư luận từ nhiều năm nay. Điều này phần nào được phản ánh qua việc cứ mỗi lần có một nông dân có phát minh nào đó có thể ứng dụng trong nông nghiệp thì gần như ngay lập tức lại có một làn sóng chỉ trích sự thiếu thực tiễn của các nhà khoa học trong các nghiên cứu của họ.

Với một loạt các sự kiện liên quan diễn ra trong năm 2015 vừa qua, như: Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam gặp mặt cộng đồng khởi nghiệp (tháng 8), hay việc Khởi động quỹ InnoFund từ nguồn vốn ODA vay của Bỉ (tháng 9),... có thể nói chủ đề này là một trong những chủ đề được quan tâm nhất trong lĩnh vực hoạt động KH-CN.

Tuy vậy, nếu nhìn vào dài hạn thì rõ ràng một vài sự kiện đơn lẻ kể trên trong năm qua cũng chỉ có thể đem lại tác động nhất thời, hoặc có phạm vi ảnh hưởng ở mức độ nhất định. Việc đưa vào hoạt động ổn định các dự án trung tâm công nghệ theo mô hình technopolis đã được khởi động như tại Hòa Lạc (Hà Nội), hay quận 9 (TP Hồ Chí Minh) mới là việc cần được ưu tiên đầu tư nguồn lực và công sức.

Nói cách khác, muốn đưa tri thức ra khỏi “tháp ngà nghiên cứu” thì mô hình technopolis là giải pháp không thể không làm. Và, chúng ta cần phải học hỏi những gì từ các nước có nền khoa học, công nghệ tiên tiến?

Từ việc xác định hai mục tiêu

Về mặt truyền thống, trường đại học được xem là “tháp ngà” (ivory tower) mà tại đó, tri thức được tạo ra và truyền bá trong giới học giả, sinh viên từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vấn đề chuyển giao tri thức để đưa vào với cuộc sống không được đặt ra như là một trong những chức năng thiết yếu của đại học. Cho đến những năm 50 của thế kỷ trước, cùng với sự ra đời của Thung lũng Silicon (Mỹ), mô hình khu trung tâm công nghệ (technopolis), nơi các trường đại học nghiên cứu và doanh nghiệp sáng tạo/doanh nghiệp phát triển dựa vào công nghệ được quy hoạch để đặt cạnh nhau; chức năng chuyển giao tri thức, hay ứng dụng kết quả nghiên cứu vào đời sống thực tiễn đã chính thức được đặt cho trường đại học.

Từ đó, thung lũng Silicon, nơi quy tụ hàng loạt các đại học nổi tiếng như Đại học California - Berkeley, Đại học Standford, Viện Công nghệ Massachusetts... cũng như hàng loạt các công ty công nghệ hàng đầu như Facebook, Google, Apple,... được xem là hệ sinh thái đại học - doanh nghiệp đầu tiên hoạt động theo mô hình Trung tâm công nghệ (technopolis) hay còn có tên gọi là Công viên khoa học (science park) trên thế giới. Thường những trung tâm này được ra đời với sự hỗ trợ rất lớn của Chính phủ các nước. Một số trung tâm công nghệ hoạt động với mô hình tương tự có thể kể đến: Khu công viên khoa học Hsinchu (Đài Loan - Trung Quốc), Khu công viên khoa học Cambridge (Anh Quốc), Trung tâm sáng tạo Solkovo (Nga),...

Thông thường, các trung tâm công nghệ có hai mục tiêu chính:

Thứ nhất, vì được xếp đặt cạnh nhau nên các nhà khoa học từ các trường đại học sẽ có nhiều điều kiện để giao lưu, gặp gỡ, chia sẻ ý tưởng với các nhà quản lý và kỹ sư làm việc tại các doanh nghiệp. Xét từ chức năng chuyển giao tri thức vào đời sống, điều này là rất quan trọng bởi một mặt, nó giúp các nhà quản lý, các kỹ sư có cơ hội được tiếp xúc với các lý thuyết, tri thức mới nhất từ phía giới nghiên cứu; mặt khác, lại giúp các nhà khoa học có cơ hội được tìm hiểu những nhu cầu thiết thực của đời sống từ giới doanh nghiệp. Việc giao lưu và chia sẻ ý tưởng này, thoạt nhìn có vẻ đơn giản nếu chỉ mường tượng rằng việc đơn thuần sắp xếp các trường đại học và các doanh nghiệp đặt cạnh nhau một cách cơ học. Nhưng thực tế, nếu xét đến bản chất thiên về lý thuyết của giới nghiên cứu và bản chất thiên về thực dụng của giới quản lý, kỹ sư thì việc tạo ra giao lưu thực sự hiệu quả giữa hai nhóm này là điều không hề đơn giản và dễ dàng.

Thứ hai, các khu trung tâm công nghệ cũng là nơi lý tưởng để ươm mầm cho sự ra đời của các doanh nghiệp mới - các doanh nghiệp phát triển dựa vào công nghệ, có khả năng ứng dụng ngay lập tức các sáng tạo tri thức của giới nghiên cứu vào thực tiễn cuộc sống. Chúng ta đều biết phần lớn các doanh nghiệp mới thường do các sinh viên mới tốt nghiệp hoặc thậm chí là vẫn còn đang đi học đại học lập ra. Nếu các sinh viên đó được học tại các trường nằm trong trung tâm công nghệ theo mô hình technopolis, thì bên cạnh sự hỗ trợ của các giáo sư trong trường đại học, họ sẽ được hưởng lợi đáng kể từ sự hỗ trợ của các doanh nghiệp “hàng xóm”: từ sự tư vấn về chuyên môn, cơ hội hợp tác cho đến đầu tư, hỗ trợ tài chính,…

Vai trò của Chính phủ

Để xây dựng được các khu trung tâm công nghệ, tất nhiên không thể bỏ qua vai trò và cam kết của Chính phủ. Vai trò và cam kết này cần được thể hiện bằng các nội dung cụ thể và khác nhau tương ứng với các giai đoạn khác nhau.

Trước tiên, đối với các quốc gia mới bắt đầu xây dựng các trung tâm công nghệ thì vai trò và cam kết này được thể hiện ở việc các chính phủ có quyết tâm trong việc cung cấp một diện tích đất đủ lớn, địa điểm đặt khu trung tâm công nghệ đủ thuận lợi cho các trường đại học và doanh nghiệp có thể chuyển địa điểm đến để hoạt động. Thực vậy, diện tích cho một khu trung tâm công nghệ không hề nhỏ, có thể tương đương như một thành phố (thí dụ như Hinschu ở Đài Loan - Trung Quốc) hay trải dài qua nhiều thành phố (như Sillicon Valley ở Mỹ). Vì vậy, việc hoạch định một khu vực đủ rộng, đồng thời lại có vị trí địa lý phù hợp là nội dung hết sức quan trọng đối với bất kỳ dự án khu trung tâm công nghệ nào.

Thứ hai, với các trung tâm công nghệ đã được xây (thường ở ngoại thành các thành phố lớn), việc làm sao di dời được các trường đại học và doanh nghiệp đầu tiên đến đặt trụ sở và làm việc là điều không hề đơn giản. Để làm được điều này, kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, nhà nước cần phải đầu tư toàn diện với các chính sách ưu tiên, hỗ trợ rất cụ thể thì mới đạt được hiệu quả. Thí dụ, có thể xây dựng các tuyến đường/ tuyến tàu điện riêng từ thành phố đến trung tâm công nghệ nhằm tiết kiệm thời gian đi lại cho cán bộ nhân viên. Hoặc những nguồn lực dùng chung tại khu công nghệ như thư viện, cơ sở hạ tầng cũng cần được chính phủ đầu tư ban đầu.

Cuối cùng, đối với các trung tâm công nghệ đã đi vào hoạt động, việc đầu tư của Chính phủ có thể được thể hiện thông qua việc tạo ra các sân chơi, các thiết chế giúp các nhà khoa học có cơ hội giao lưu với các nhà quản lý, các kỹ sư như hội thảo, hội nghị, nhà tài trợ cho các nghiên cứu chung... Hoặc đối với mục tiêu hỗ trợ khởi nghiệp, vai trò của Chính phủ có thể thể hiện qua việc hỗ trợ, tư vấn pháp lý, cung cấp nguồn lực, ưu đãi thuế, đầu tư mạo hiểm v.v.

Khu công nghệ cao Hòa Lạc là trung tâm được xây dựng theo mô hình technopolis đầu tiên tại Việt Nam từ năm 1998 với tổng thể diện tích 1.586 ha. Theo thiết kế, khu vực này bao gồm 10 khu chức năng chính: phần mềm, nghiên cứu và triển khai, giáo dục và đào tạo, công nghiệp công nghệ cao, trung tâm, dịch vụ tổng hợp, nhà ở kết hợp văn phòng, chung cư, tiện ích và giải trí - thể dục thể thao. Đã có khoảng 72 dự án đăng ký hoạt động tại Khu công nghệ cao này với số vốn gần 60.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến nay mới chỉ có vài dự án đi vào hoạt động như: Trường đại học FPT, Công ty Fsoft và Trung tâm công nghệ cao Viettel.

Có thể bạn quan tâm