Con đường đất trơn trượt len lỏi giữa những thửa ruộng dẫn vào nhà bạn đã được đổ bê-tông. Hồi đó đạp xe vào nhà bạn chơi, không biết bao nhiêu đứa bị rớt ruộng, người lấm lem bùn đất mà vẫn nhìn nhau cười nắc nẻ. Vẫn là quê mình đó nhưng không còn cảnh những đứa bé ngồi vắt vẻo lưng trâu đợi chiều về. Quê đổi thay ai chẳng mừng nhưng sao lòng mình vẫn ích kỷ muốn níu giữ những điều cũ kỹ, để mỗi lần về lại một lần được thấy… đúng quê!
Đi ngang ngã ba, tôi lại nhớ cái tiệm tạp hóa nhỏ xíu nép dưới bóng tre của bà Thìn. Đó là cái tiệm tạp hóa duy nhất hồi đó trong làng. Mỗi bận đi bộ ngang, mấy cặp mắt sáng trưng nhìn vào cái cửa sổ bằng tre được chống lên bằng một cây sào. Cái tiệm nhỏ xíu mà vạn năng, hỏi gì cũng có. Từ nước mắm, bột ngọt, đường cát, mì tôm đến xà bông giặt đồ. Má hồi đó hay sai tôi xách chai đi đong dầu, mua mắm. Tay đưa bà Thìn cái chai còn mắt thì nhìn vào mấy cái hũ nhựa tròn tròn trong có mấy cục kẹo xanh đỏ rồi nuốt nước miếng ừng ực. Thỉnh thoảng còn tiền dư, má cho mua kẹo.
Bà Thìn cũng hay cho người trong làng mua chịu. Quyển vở học trò cũ mèm được kẻ ra mấy cột ghi chữ “sổ nợ” to tướng ngoài bìa. Trong đó chi chít những dòng chữ lằng ngoằng ghi nợ dầu ăn, nợ gạo, nợ đường… Sổ nợ cứ dài mãi ra, có khi đến hai ba cuốn vở cho tới mùa lúa gặt. Bà Thìn cũng dễ chịu, chỉ tặc lưỡi khi tụi con nít tần ngần cầm đường, xách chai dầu trên tay bảo “bà ghi nợ cho má con”. Ở quê hồi đó chỉ trông chờ vào mấy thửa ruộng. Gặt xong, bán lúa, từng cột nợ được gạch đi. Có khi lúa được chở thẳng tới nhà bà Thìn xóa nợ. Những nợ thương nợ nhớ ấy dài ra mãi cho đến khi cái tiệm tạp hóa của bà Thìn biến mất.
Tôi lớn lên rồi xa nhà. Hình như kẻ tha hương nào cũng ráng tìm trong những dấu vết cũ hình bóng quê xưa để vỗ về mình. Hồi nhỏ, đâu có đứa trẻ nghĩ ngợi đến chuyện quê nghèo, quê giàu. Những buổi chiều êm như ru kiếm nấm rơm ngoài đồng, chạy chơi đuổi bắt. Chiều nhập nhoạng giả vờ chẳng nghe thấy tiếng mẹ gọi về nhà. Lớn lên rồi đi xa mới biết, những tháng ngày đó mình đã giàu có biết bao nhiêu.
Ở thành phố, đôi lúc tôi lại bắt gặp đâu đó bóng dáng quê nhà. Những gánh hàng rong lẩn trong hẻm nhỏ, chỉ thấy thấp thoáng vành nón cùng quang gánh kẽo kẹt. Chẳng có sự liên hệ nào nhưng sao họ giống những dáng người quê nghiêng nghiêng gánh lúa, gánh gạo trên mấp mô đường làng. Hàng cây bên sông trút lá vàng. Ai đó gom lại rồi đốt. Khói bảng lảng làm mình se sắt. Chợt nhận ra rằng, dù mình đi xa tới đâu thì hồn vẫn cứ vấn vương hoài gốc rạ, vẫn muốn thao thiết được trở về…