17 năm. Và 10 năm nữa
Và có lẽ, những lời bộc bạch đó cũng chính là lý do để số lượng trước tác của Kim Dung dừng lại ở một con số ít ỏi đến vậy.
Từ năm 1955 đến năm 1972, ông chỉ thực hiện 15 đầu sách, đủ để có thể tập hợp gần hết trong đôi câu đối nổi tiếng vẫn được các độc giả trung thành của ông truyền tụng như một công cụ ghi nhớ: Phi (Phi Hồ ngoại truyện) Tuyết (Tuyết Sơn Phi Hồ) Liên (Liên Thành Quyết) Thiên (Thiên Long Bát Bộ) Xạ (Xạ điêu Anh hùng truyện) Bạch (Bạch Mã khiếu Tây phong) Lộc (Lộc Ðỉnh ký) - Tiếu (Tiếu Ngạo giang hồ) Thư (Thư kiếm ân cừu lục) Thần (Thần điêu hiệp lữ) Hiệp (Hiệp khách hành) Ỷ (Ỷ Thiên Ðồ Long ký) Bích (Bích Huyết kiếm) Uyên (Uyên ương đao). Ngoài những cái tên đó, chỉ còn Việt Nữ kiếm, một tiểu truyện.
Di sản ấy quá khiêm tốn so với các tác giả võ hiệp cùng thời, những người liên tục phải sản xuất ra những câu chuyện "kiếm-hiệp-kỳ-tình" nhằm đáp ứng nhu cầu của độc giả mua báo hằng ngày ở Hồng Công (Trung Quốc) thuở đó, như Cổ Long, Ngọa Long Sinh, Trần Thanh Vân hay Lương Vũ Sinh. Dĩ nhiên, một phần lý do là ở quãng thời gian sung sức nhất, Kim Dung thường tập trung xây dựng những tác phẩm đồ sộ hơn hẳn về quy mô so với các đồng nghiệp. Phần khác, kể từ năm 1959, ông đã sáng lập tờ Minh báo, và còn phải cáng đáng rất nhiều công việc khác. Nhưng, phần quan trọng nhất vẫn là sự nghiêm khắc của ông đối với tác phẩm của chính mình.
Năm 1972, sau khi mất ba năm để hoàn tất bộ tiểu thuyết "phong bút" Lộc Ðỉnh ký, Kim Dung không viết truyện kiếm hiệp nữa. Ông gửi thư mời Cổ Long thay thế vị trí của mình trên Minh báo. Và ông bỏ ra 10 năm, cùng chi phí gấp nhiều lần so với số tiền nhuận bút nhận được, để chỉnh sửa lại "dung mạo" cho toàn bộ "những đứa con tinh thần" của mình. Chẳng ai bắt ông làm điều đó hết, ngoại trừ chính sự khắc kỷ mà ông dành cho ông.
Mặt tối của hào quang
Không tự nhiên có một Kim Dung như thế, một Kim Dung luôn cố gắng phả vào hệ thống nhân vật trong tác phẩm của mình nhiều sắc thái nhân tính nhất có thể, và đã thành công. Vốn sống cuộc đời của riêng ông, thực ra, nếu không phải là chất liệu thì cũng là mảnh đất màu mỡ để ươm xuống những hạt giống ý tưởng đầy trăn trở và tràn ngập nỗi niềm.
Họ Tra của ông (Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung) vốn là một danh gia vọng tộc tại Gia Hưng (Triết Giang, Trung Quốc), nhưng đến đời ông đã sa sút rất nhiều. Kim Dung thông minh lanh lợi từ nhỏ, chăm đọc sách từ nhỏ, bộc lộ cả tài năng sử dụng ngôn ngữ cũng như tinh thần phản kháng bằng ngôn ngữ thông qua các bài đăng báo từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ năm 1941 cũng không ngăn được ông theo học ngành Luật quốc tế tại Học viện chính trị Trùng Khánh. Song, cá tính không ngại đấu tranh khiến ông bị đuổi học, năm 19 tuổi.
Làm một thủ thư, làm một nông dân ở nông trang, rồi làm một phóng viên vô danh trước khi đầu quân cho Ðại công báo của Hồng Công, cuộc đời cuốn dần ông vào trường văn trận bút. Xuyên suốt cả quãng thời gian đó, vật lộn với cơm áo gạo tiền, lại bị dập vùi bởi bão táp thời cuộc, Kim Dung mất hẳn liên lạc với gia đình ở đại lục. Người vợ đầu theo ông đến đất khách cũng chia tay.
Sau bà, ông còn hai lần kết hôn nữa, cho đến cuối đời. Nhưng, những vết xước đầu tiên ấy có lẽ đã hóa thân thành nỗi ám ảnh đầy nghi ngờ về hạnh phúc, về tình yêu và về phụ nữ. Như cách ông để nhân vật Ân Tố Tố nói với con trai là Trương Vô Kỵ, trước khi tự sát: "Hãy nhớ nhé con, phụ nữ càng đẹp thì lại càng hay lừa dối người!". Thế nhưng, ông không bao giờ xây dựng hình tượng phụ nữ trong tác phẩm của mình thành thứ đồ chơi của đàn ông, như nhiều đồng nghiệp danh tiếng khác. Ông vẫn trân trọng, rất trân trọng họ.
Và trong cả quãng đời sáng tác, kể từ lúc còn phải quay cuồng làm mọi công việc từ dịch tin, viết bình luận quốc tế, giữ mục Trả lời bạn đọc, viết tiểu thuyết võ hiệp… đến khi đã là ông chủ Minh báo ăn nên làm ra, Kim Dung cũng chứng kiến quá nhiều những tranh đấu chính trường, những cảnh ngộ bi thương của cuộc sống. Vì thế mà ông có những nhân vật chính xuất thân kém cỏi như Quách Tĩnh, có nhân vật chính chỉ là một gã trai làng bị thời thế đẩy đưa như Ðịch Vân, có cả nhân vật chính mang đầy tính châm biếm hiện thực như Vi Tiểu Bảo…, thay thế cho những mô-típ đẹp đẽ, hào hoa ước lệ.
Và ông, từ nhãn quan của một cây bút bình luận quốc tế uy tín, luôn luôn đè nén chủ nghĩa Ðại Hán, luôn luôn dành cho các dân tộc ít người những thiện cảm dào dạt.
Con đường giải thoát
Bi kịch lớn nhất trong cuộc đời Kim Dung có lẽ là cái chết của người con trai trưởng năm 1976. Thế nhưng, từ trước đó, khi còn sáng tác, ông cũng đã liên tục nỗ lực tìm một con đường giải thoát cho nhân sinh quan của mình. Ông đi từ lý tưởng "hành hiệp trượng nghĩa" cổ điển đến chủ nghĩa tự do kiểu Lão Trang, từ tâm thế "sắc sắc không không" của đạo Phật đến những sự hý lộng sâu cay, và tạo nên một hệ thống nhân vật không thể trộn lẫn với bất cứ ai. Một Tiêu Phong uy nghi, một Lệnh Hồ Xung phóng túng, một Nhạc Bất Quần "ngụy quân tử" hay một Vi Tiểu Bảo "chân tiểu nhân", thảy đều đã trở thành những biểu tượng.
Và ông dừng lại, khi thấy mình không còn nhu cầu, cũng khó có thể tự mình vượt qua chính mình nữa. Ông dừng lại, khi một ngành nghiên cứu mang tên ông - Kim học (Jinology) đã chính thức hình thành. Ông đem những triết lý nhân sinh từng lồng vào bóng kiếm ánh đao, cố gắng áp dụng vào thực tế thông qua tầm ảnh hưởng mà ông có được. Ngày Hồng Công trở về với Trung Quốc, ông là một thành viên hội đồng soạn thảo pháp luật.
Nhưng mãi mãi, người đọc sẽ nhớ đến ông như một "Kim minh chủ" của văn đàn kiếm hiệp. Mãi mãi. Cho dù ngày 30-10, ông đã hưởng trọn tuổi trời. Cho dù, ông đã phong bút từ trước đó 46 năm…