Toàn quốc kháng chiến - bản hùng ca về ý chí bảo vệ độc lập, tự do

“Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách”

Ngày 19-12-1946, những nỗ lực cứu vãn nền hòa bình từ phía Việt Nam, đặc biệt là của Chủ tịch Hồ Chí Minh cuối cùng đã bị đổ vỡ. Toàn dân Việt Nam buộc phải đứng lên bảo vệ nền độc lập dân tộc thiêng liêng của mình-không phải bằng sức mạnh của binh lực, hỏa lực mà bằng sức mạnh của truyền thống chống ngoại xâm bất khuất kiên cường, bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết, bằng niềm tin vững chắc ở thắng lợi cuối cùng...

Quyết tử quân Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến năm 1946. Ảnh: Tư liệu
Quyết tử quân Hà Nội trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến năm 1946. Ảnh: Tư liệu

“Chúng tôi mong muốn hòa bình”

“... Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu sinh mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm.

... Nước Pháp có những phương tiện ghê gớm và cuộc chiến tranh sẽ khốc hại, nhưng dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng chịu đựng tất cả, chứ không chịu mất tự do. Dù sao thì tôi mong rằng chúng ta sẽ không đi đến cách ấy.

... Chúng tôi mong muốn hòa bình” (1).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với phóng viên Berna Dranber (báo Paris - Sài Gòn) như vậy chỉ một tuần trước ngày Toàn quốc kháng chiến. Phải đối phó với hàng loạt hành động gây hấn để làm bùng nổ chiến tranh của những kẻ dẫn đầu đội quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, Chính phủ Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo vẫn chủ trương tìm mọi cách đề duy trì hòa bình, tránh cuộc xung đột vũ trang. Tất cả những nỗ lực ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều thể hiện rõ nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mong muốn giữ mối quan hệ Việt - Pháp “không có tiếng súng”.

Cuối năm 1946, không khí chiến tranh ngày càng “nóng” lên nhưng Hồ Chí Minh vẫn kiên trì những nỗ lực. Trong hai tuần đầu của tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ba lần gửi thông điệp và điện cho Chính phủ Pháp, một lần gửi thư cho Ủy viên Cộng hòa Pháp J.Sainteny, đưa ra những biện pháp cứu vãn hòa bình và ngăn chặn chiến tranh bùng nổ ở Việt Nam. Cho đến sáng ngày 19-12-1946, sau khi nhận được tối hậu thư của Bộ chỉ huy quân đội Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn viết thư giao cho ông Hoàng Minh Giám, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, chuyển tới J.Sainteny với mong muốn “ông sẽ cùng ông Giám tìm một giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại”. J.Sainteny đã khước từ cuộc tiếp xúc này (2). Sau này người ta được biết những thông điệp hòa bình của Hồ Chí Minh đã bị những người đại diện của Pháp ở Đông Dương cố tình chuyển chậm. Nhiều thông tin bị bưng bít, xuyên tạc cả với những phái viên cao cấp được Paris cử đến Việt Nam để nắm tình hình là M.Muotet và A.Leclerc. Mọi quyết tâm và toan tính của những thế lực muốn gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ hai khi đó dồn vào việc thực hiện một cuộc tấn công chớp nhoáng, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và khôi phục lại địa vị thống trị Đông Dương của Pháp.

Thiện chí hòa bình của nhân dân Việt Nam bị những thế lực thực dân hiếu chiến Pháp gạt sang một bên, buộc chúng ta phải Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: “Chúng tôi, Chính phủ và dân chúng Việt Nam nhất định đấu tranh giành độc lập và thống nhất toàn quốc, nhưng sẵn sàng hợp tác thân thiện với dân chúng Pháp”; “Chúng tôi yêu chuộng các bạn và muốn thành thực với các bạn trong khối liên hiệp Pháp vì chúng ta có chung một lý tưởng: tự do - bình đẳng - độc lập” (3). Ngày 24-12-1946, Người viết cho các kiều dân Pháp: “Chúng tôi mong một ngày gần đây, dân chúng Pháp và dân chúng Việt Nam sẽ có thể cùng hợp tác với nhau trong vòng hòa bình và thân ái để mưu hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc” (4).

“Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết”

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời nằm ngoài mọi dự tính và dàn xếp của các “nước lớn” cũng như nằm ngoài mọi toan tính của những kẻ muốn duy trì chế độ cai trị thực dân ở Việt Nam. Chính quyền cách mạng ra đời “không đồng minh, không tiền, hầu như không vũ khí” như nhận xét của Pignon, cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp tại Đông Dương D’Argienlieu. Tất cả các thế lực thù địch dù có mâu thuẫn với nhau về một vài quyền lợi song đều nhất trí trong cuộc tấn công nhằm tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ của nhân dân, tiêu diệt nền độc lập dân chủ cộng hòa của nhân dân Việt Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập. Chính quyền cách mạng mới thành lập vừa đứng trước những nguy cơ xâm lược nguy hiểm và trực tiếp của các thế lực vừa phải đương đầu với những khó khăn thử thách to lớn và cấp bách tưởng chừng như không vượt qua nổi do những hậu quả của ách đô hộ thuộc địa và chiến tranh, vừa phải đối phó với những tình thế nguy hiểm và phức tạp do những âm mưu phá hoại và lật đổ vừa phải lo xây dựng, củng cố mình về mọi mặt.

Vượt qua tất cả các âm mưu và hành động chống phá, Chính phủ Hồ Chí Minh vẫn đứng vững trong sự bảo vệ của nhân dân vì đã hành động hợp với lòng người. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn sau ngày độc lập, nhân dân đã được hưởng những quyền lợi trước đó chưa từng được hưởng về dân quyền, dân chủ, dân sinh, dân trí, v.v. Đời sống người dân từng bước ổn định, nạn đói bị đẩy lùi, phong trào Diệt giặc dốt đạt kết quả to lớn với hơn 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ chỉ trong thời gian ngắn, v.v. Chính quyền cách mạng vì nhân dân, được nhân dân tín nhiệm đã mang lại nhiều phúc lợi cho số đông quần chúng. Những nỗ lực hành động hợp lòng dân của Chính phủ cách mạng đã được đông đảo nhân dân hưởng ứng.

Một năm đầu tiên của nền Cộng hòa non trẻ, trước nguy cơ bị xâm lược trở lại và đặt lại chế độ cai trị thực dân, Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết trở thành ngọn cờ giương cao trong cuộc đấu tranh chống lại những âm mưu chia rẽ, phá hoại. Trong những tháng ngày vận mệnh đất nước cam go, khối đại đoàn kết toàn dân được xây dựng rộng rãi, không bỏ sót một nguồn lực nào đã phát huy sức mạnh to lớn. Cả những người không cộng sản, cả đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, những người đã từng làm việc dưới chế độ cũ, những người trong hoàng tộc, cả những người tưởng như đã ở dưới đáy của xã hội xưa, v.v. tất cả đều hướng về bảo vệ lợi ích dân tộc tối cao. Mỗi người đều có thể tìm thấy chỗ đứng của mình, đều có thể lựa chọn phương cách phù hợp với mình để góp phần cho “cuộc phấn đấu chung”.

Với sức mạnh đoàn kết, với một quyết tâm chung bảo vệ độc lập dân tộc trước nguy cơ Còn - Mất, toàn thể nhân dân Việt Nam đã tự tin và quả cảm, quyết tâm và chủ động bước vào cuộc kháng chiến, dù biết sẽ lâu dài và nhiều gian khổ hy sinh.

Chiến lũy đã được chuẩn bị trên phố, chặn quân xâm lược bằng cả những đồ quý trong nhà. Đúng tám giờ tối ngày 19-12-1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi mệnh lệnh:

“Tổ quốc lâm nguy

Giờ chiến đấu đã đến...”. Đèn Hà Nội vụt tắt. Tiếng súng từ pháo đài Láng bắn vào cứ điểm của Pháp trong thành Hà Nội đã chính thức đánh dấu thời khắc cả dân tộc hiên ngang bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. 30 (trong số 50) vị trí, 60 ổ hỏa lực của Pháp trong nội thành Hà Nội bị tấn công, 10 vị trí và 50 ổ chiến đấu trong số này đã bị tiêu diệt ngay trong những giờ đầu tiên.

Nhân dân vẫn bình tĩnh tản cư trong trật tự. Người đi gửi gắm niềm tin và tình cảm cho những người ở lại chiến đấu. Niềm tin và tình cảm đó không cầu kỳ hoa mỹ mà giản dị, chất phác qua thúng xôi lạc còn nóng bốc hơi không rõ ai đặt ở nhà hậu ngôi chùa gần Ủy ban khu Văn Miếu trong buổi sáng sớm ngày 20-12, ủng hộ các chiến sĩ vừa chiến đấu ác liệt qua đêm, qua những con bò, con lợn được bà con buộc sẵn lại cho các chiến sĩ làm thực phẩm... Hai kho đường, trứng, bánh kẹo của hai nhà bánh Việt Hương và Cự Hương cũng để lại ủng hộ các chiến sĩ ăn Tết Đinh Hợi sắp đến...

Với ý chí “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, dân tộc Việt Nam đã kiêu hãnh đi qua cuộc chiến tranh cách mạng hào hùng để bảo vệ độc lập tự do và phẩm giá của mình. Sau chặng đường dài chiến tranh, “Súng gươm trả hết lại hiền như xưa”, nhân dân Việt Nam lại bắt đầu sự nghiệp chấn hưng đất nước, hôm nay đang từng bước khởi phát, với niềm tin mới trong vận hội mới...

(1) Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập - Nxb CTQG, Hà Nội, tập 4, tr. 526.

(2) Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử - Nxb CTQG, Hà Nội, 1993, tập 3, tr. 355.

(3) Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập - Sđd, tập 4, tr. 535, 536.

(4) Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập - Sđd, tập 4, tr. 543.

Có thể bạn quan tâm