Cuộc đua "xoay trục"
Năm 1993, Tổng thống Mỹ B.Clin-tơn (Bill Clinton) chủ trì Hội nghị cấp cao APEC ở Xi-a-tơn (Seattle) và giới thiệu chính sách đối ngoại lấy châu Á - Thái Bình Dương làm trọng tâm. Gần 20 năm sau, tại sự kiện tương tự ở Hô-nô-lu-lu (Honolulu) năm 2011, Tổng thống B.Ô-ba-ma (Barack Obama) cụ thể hóa điều đó bằng tầm nhìn "Thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương".
Mỹ không thể trì hoãn quá trình "xoay trục" chiến lược về châu Á lâu hơn nữa, khi nhận thấy các cuộc chiến kéo dài hơn một thập kỷ qua ở I-rắc (Iraq) và Áp-ga-ni-xtan (Afghanistan) đã tạo khoảng trống cho các đối thủ mở rộng ảnh hưởng. Vì thế, chính quyền Ô-ba-ma nỗ lực không mệt mỏi triển khai các bước chuyển hướng nổi bật: Về kinh tế, thúc đẩy Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhằm tự do hóa thương mại trong khu vực không có Trung Quốc; về quốc phòng, lên kế hoạch đến năm 2020 triển khai 60% số tàu ngầm tại châu Á...
Với các đồng minh truyền thống (Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Phi-li-pin và Thái-lan), với việc tham gia các khối kinh tế APEC, G20... và với việc "vươn tay hợp tác" với cả Trung Quốc lẫn Ấn Ðộ, xem như Mỹ đã đặt một chân về lại châu Á. Song, cuộc trở lại này xác định Ðông - Nam Á là điểm dừng mới. Chuyến thăm đồng thời của bộ ba quyền lực (Tổng thống B.Ô-ba-ma, Bộ trưởng Ngoại giao H.Clin-tơn và Bộ trưởng Quốc phòng L.Pa-nét-ta) tới năm nước ASEAN ngay sau cuộc bầu cử (tháng 11-2012) chỉ rõ vị trí Ðông - Nam Á trên bản đồ chiến lược Mỹ.
Với Ô-xtrây-li-a (Australia), châu Á là nơi đáp ứng tốt nhất những nhu cầu tương lai. Ðược xem là quốc gia may mắn vì nằm cách xa các khu vực xung đột của thế giới, lại có lãnh thổ rộng lớn, tài nguyên phong phú... nhưng Ô-xtrây-li-a không thể dựa mãi vào ngành công nghiệp khai khoáng mà cần đa dạng hóa hoạt động kinh tế, phát huy thế mạnh các ngành công nghiệp thay thế, dịch vụ... Sách trắng của Can-bơ-rơ (Canberra) ra đời (tháng 10-2012) nhằm đón đầu các cơ hội từ một châu Á đang trỗi dậy nhằm phục vụ chiến lược phát triển quốc gia.
Với LB Nga, trong nỗ lực lấy lại vị thế cường quốc, "nhà lãnh đạo mạnh mẽ" V.Pu-tin (Vladimir Putin) cũng quyết không "chậm chân" ở châu lục này. Chính sách "hướng Ðông" do người tiền nhiệm khởi xướng (tham gia cơ chế cấp cao Ðông Á - EAS năm 2010) được Tổng thống Pu-tin đẩy lên một bước, khi "đăng cai" Hội nghị cấp cao APEC (tháng 9-2012) tại Vla-đi-vô-xtốc (Vladivostok), cùng hàng loạt dự án phát triển vùng Viễn Ðông - "cửa ngõ châu Á" của Nga...
Chính sách "Cái nhìn về hướng Ðông" khởi xướng từ năm 1991 được Ấn Ðộ tiếp tục xác định là trọng tâm chiến lược đối ngoại. Thuật ngữ chính trị "Ấn Ðộ - Thái Bình Dương" mà Thủ tướng M.Xinh (Manmohan Singh) đưa ra tại Hội nghị cấp cao Ấn Ðộ - ASEAN (tháng 12-2012) chỉ rõ mối quan tâm ngày càng lớn của Niu Ðê-li (New Deli) tới khu vực này. Trong khi đó, thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà EU ký với Xin-ga-po (tháng 12-2012) chỉ sau hai năm thương lượng cũng cho thấy một quyết tâm không bỏ lỡ "chuyến tàu châu Á".
Thách thức từ cạnh tranh khốc liệt
"Miền đất lành" này quy tụ những gương mặt sáng giá của kinh tế thế giới (Trung Quốc, Ấn Ðộ, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN...), với mức tăng trưởng trung bình 8%/năm suốt hai thập kỷ qua (gấp ba lần các nước giàu). Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 chứng kiến bản lĩnh vượt bão của các "anh tài" châu Á. Dự báo, đến năm 2025, châu Á sẽ chi phối kinh tế thế giới, với bốn trong mười nền kinh tế lớn nhất; GDP chiếm hơn một nửa tổng giá trị kinh tế toàn cầu. Trên bình diện rộng hơn, khu vực châu Á - Thái Bình Dương (chiếm tới hơn một nửa dân số, hơn một nửa số thành phố lớn và giàu của thế giới; có tỷ lệ tăng trưởng GDP cao, nguồn tài chính dồi dào và hợp tác kinh tế ngày càng sâu rộng) được xem là "phao cứu sinh" của kinh tế toàn cầu đang trong vòng suy thoái, bất ổn.
Ðó là lý do để các cường quốc hàng đầu khẳng định tương lai của họ gắn với những tiềm năng ẩn chứa của khu vực. Nhưng, vòng xoay "đến, trở lại và ở lại" đang đưa các nước "dấn thân" vào một cuộc cạnh tranh khốc liệt, giữa Trung Quốc - "thế lực" đang dần thay thế Mỹ với tư cách động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương; và Mỹ - siêu cường đang cố gắng duy trì vai trò chi phối an ninh, thông qua mạng lưới đồng minh khắp khu vực.
Sự "trở lại" của Mỹ được cho là nhằm kiềm chế sức mạnh và ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc. Oa-sinh-tơn (Washington) lên kế hoạch tăng cường sự hiện diện quân sự khắp khu vực cũng như ảnh hưởng kinh tế ở vành đai Thái Bình Dương. Nhưng, liệu Mỹ có đủ tiềm lực để thực hiện hàng loạt cam kết "trở lại" khi ông Ô-ba-ma cùng lúc phải thực thi các chương trình cắt giảm lực lượng và ngân sách quốc phòng? Liệu tình trạng rối loạn ở Trung Ðông - Bắc Phi có cản trở chiến lược tái cân bằng ảnh hưởng của Mỹ? Và làm thế nào Mỹ đối phó tương lai rối loạn ở Áp-ga-ni-xtan, duy trì tiến trình cải cách (nhất là về chính trị) tại Mi-an-ma (Myanmar), tăng cường tiếp xúc chiến lược với một Ấn Ðộ "không liên kết", cũng như xây dựng lại liên minh chiến lược với một Nhật Bản có xu hướng đề cao chủ nghĩa dân tộc?...
Một khía cạnh khác: Ô-xtrây-li-a muốn có "đồng minh Oa-sinh-tơn" và "người bạn Bắc Kinh", nhưng đó là một ý tưởng "đi trên dây". Can-bơ-rơ sẽ không dễ dàng giữ cân bằng giữa hai quyền lực. Sự "so kè" ấy cũng sẽ là thách thức với chủ trương của Ấn Ðộ (không tham gia đối đầu mà tạo ra sự cân bằng giữa biến động); hay mong muốn của Nga về tăng cường sức mạnh quốc gia và tạo ảnh hưởng ở khu vực...
Nằm ở tâm điểm chiến lược của thế giới, châu Á có nhiều cơ hội, nhưng cũng đầy "cạm bẫy". Những bạn hàng thương mại lớn nhất của Trung Quốc cũng đồng thời là đồng minh, bạn bè chủ chốt của Mỹ. Làm sao tận dụng được cơ hội, giảm thiểu rủi ro nhằm phục vụ sự phát triển của chính mình sẽ là bài toán khó khăn đối với nhiều nước. Lời giải có lẽ phải chờ những diễn biến tiếp theo trong năm 2013, qua các vận động khôn khéo tự thân...