Cả vũ trụ trên một chiếc xe lăn

“Cuộc sống sẽ là bi kịch, nếu thiếu tiếng cười”, Stephen Hawking từng nói như vậy. Nhưng, cuối buổi công chiếu bộ phim The Theory of everything (Thuyết vạn vật) về cuộc đời của chính mình, người y tá riêng đã phải giúp ông lau những giọt nước mắt rớt xuống chiếc xe lăn - điểm tựa và bệ phóng để trí tuệ phi thường ấy chạm đến những tầng cao bí ẩn của vũ trụ. Ngày 14-3, hơi thở cuối cùng của ông tắt lịm. Bầu trời hằn thêm một vệt lân tinh.

Cả vũ trụ trên một chiếc xe lăn

Còn sống, còn hy vọng!

Có lẽ, hiếm người đến được gần “bản ngã” của ông như nam diễn viên Eddie Redmayne. Nhận vai Stephen Hawking trong The Theory of Everything, “một biểu tượng mà tất cả mọi người đều biết, một nhà khoa học thiên tài, một người vẫn còn đang sống đây…”, Eddie sợ tất cả những gì mình nghiên cứu, biết và nghĩ về Hawking đều sai. Nỗi lo lắng nhân lên gấp bội, khi có người kêu lên với anh trong buổi tập đầu: “Không không, Eddie, tóc của Stephen Hawking còn phải rối bù hơn thế!”. Và năm ngày trước khi bấm máy, anh xin ông một cuộc hẹn.

Cuộc gặp chỉ bao gồm tám đoạn đối thoại. Chúng càng khiến Eddie cảm thấy mình bé nhỏ và choáng ngợp, khi đối diện với “huyền thoại sống” của khoa học đương đại. Song, anh bình tâm lại, khi ông yêu cầu anh gọi mình là “Stephen” một cách thân mật, chứ không phải “Thưa giáo sư!”. Và thấm vào anh là sự hài hước, cùng một tuyên ngôn của ông: “Ở đâu có sự sống, ở đó có hy vọng”.

Để rồi, ngày công chiếu, Stephen đến và nói: “Ta sẽ xem hay dở thế nào nào!”. Eddie trả lời: “Stephen, nếu dở, xin ngài đừng đi vào chi tiết được không?”. Phần còn lại là thành công vang dội của bộ phim, mà những giọt lệ của chính Stephen là phần thưởng lớn nhất.

Đừng bao giờ hối tiếc!

Sẽ là thừa thãi, nếu nhắc lại những công trình nghiên cứu làm nên danh tiếng và vị thế vô song của Stephen Hawking trong khoa học. Chỉ một cuốn A Brief History of Time (Lược sử Thời gian) tái xác lập và định hình nền tảng lý thuyết cho Vũ trụ học hiện đại là đã đủ để ông đường hoàng bước chân vào ngôi đền của các danh nhân, trong tư cách người kế thừa của những Isaac Newton hay Albert Einstein.

Cũng đã là quá quen thuộc, câu chuyện về chàng trai 21 tuổi chống chọi với căn bệnh ALS (xơ cứng teo cơ, liệt nửa người), bị gắn chặt vào chiếc xe lăn, nhưng vẫn làm nên những kỳ tích. Hơn 40 năm qua, câu chuyện ấy đã trở thành nguồn cảm hứng của không biết bao nhiêu thế hệ trên khắp thế giới, thành tấm gương chiến đấu và chiến thắng nghịch cảnh.

Song, cốt lõi của câu chuyện thần thoại này là gì? Có lẽ, câu trả lời nằm trong cách ông nhắn nhủ đến những người cùng cảnh ngộ: “Hãy tập trung vào những thứ mà khuyết tật không thể ngăn cản bạn làm tốt. Đừng bao giờ hối tiếc về những khiếm khuyết của mình. Đừng để bị vô hiệu hóa, cả về tinh thần lẫn thể chất!”. Chúng ta có thể hiểu lời khuyên ấy, một cách ngắn gọn: Đừng tự xem mình là người khuyết tật!

Và 76 năm cuộc đời mình, ông đã sống đúng như thế. Ông yêu và hẹn hò ngay từ thời sinh viên, như mọi bạn bè đồng trang lứa. Ông hoạt bát, dí dỏm, hứng thú với nhạc cổ điển, say mê tiểu thuyết viễn tưởng. Ông thậm chí còn tham gia CLB đua thuyền. Ông kết hôn và ly hôn, như bất cứ người đàn ông bình thường nào (hai lần, trong cả cuộc đời). Ông có ba người con, một con nuôi và nhiều cháu.

Ông để tâm đến cả những diễn biến bên ngoài khung trời khoa học. Tháng 3-1968, ông xuống đường tham gia biểu tình phản đối nhà cầm quyền Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Ông gọi cuộc tiến công vào Iraq năm 2003 là “tội phạm”. Ông tham gia các hoạt động từ thiện. Ông, gần đây, cảnh báo việc nước Mỹ rời bỏ Thỏa thuận về chống biến đổi khí hậu toàn cầu “sẽ khiến Trái Đất tiến nhanh hơn trên con đường trở thành một hành tinh giống như Sao Kim”. Ông lo ngại việc nước Anh rời khỏi Liên hiệp châu Âu (EU) sẽ ảnh tưởng tiêu cực đến các nhà khoa học Anh, bởi khoa học hiện đại cần những sự chia sẻ và kết nối quốc tế…

Không ai được quyền thương hại con người ấy. Ông không cho phép!

Đi theo những vì sao

Sinh vào ngày mất của nhà thiên văn học lừng danh Galileo Galilee (8-1), mất vào ngày sinh của Einstein (14-3), dường như đó là định mệnh dành cho tượng đài bất tử của ngành Vật lý Thiên văn học. Và có lẽ, Stephen Hawking là minh chứng điển hình nhất cho câu cách ngôn: “Mỗi con người là một tiểu vũ trụ”, với rất nhiều màu sắc truyền kỳ.

Bất chấp việc sinh ra trong một gia đình trí thức, mà “mỗi người cầm một quyển sách trong bữa ăn, vừa ăn vừa yên lặng đọc sách” - như hồi ức của những người láng giềng, kết quả học tập của Stephen ở tiểu học chỉ đạt mức trung bình.

Đến đại học Oxford, Stephen thấy “việc học dễ dàng một cách kỳ cục”. Như tuyên ngôn sau này, ông chỉ tập trung vào các đề mục mang tính lý thuyết, mà bỏ qua những câu hỏi đòi hỏi kiến thức thực tiễn. Ông tiếp tục đến Đại học Cambridge sau một giai thoại: Trong buổi vấn đáp mô tả kế hoạch tương lai lúc lấy bằng cử nhân, ông nói: “Nếu quý vị trao cho tôi hạng nhất, tôi sẽ đến Cambridge. Nếu hạng nhì, tôi sẽ ở lại Oxford. Bởi vậy, tôi hy vọng sẽ được chấm hạng nhất”. Robert Berman, thầy dạy vật lý của ông, bình luận: “Ban giám khảo đủ thông minh để biết rằng đang đối thoại với người thông minh hơn tất cả bọn họ”.

Ta luôn thấy chất “ngông”, hoặc nói cách khác là sự tự tin tột độ trong suốt cuộc đời Stephen Hawking. Nói như Jane, người vợ đầu: “Tôi gọi đó là ngoan cố, hoặc kiên định, tùy từng lúc”. Đôi khi, tính cách này thể hiện thành những mâu thuẫn. Ông đã từng quyết liệt từ chối việc bỏ nạng để ngồi xe lăn, năm 1960, nhưng rồi lại tìm thấy sự thích thú qua việc phóng xe lăn thật nhanh qua hành lang. Ông sở hữu một trí tuệ thiên tài, nhưng lại cho rằng: “Những người tự hào về chỉ số IQ chỉ là những kẻ thua cuộc”.

Có lẽ, thiên tài ấy cũng đã luôn phải chống đỡ với những yếu mềm nội tâm, nhất là trong những khoảng thời gian vật lộn với “cơm áo gạo tiền” khi mới ra trường. Ông hiểu giá trị của lao động, nên ông khuyên các con: “Một, hãy nhớ nhìn lên các vì sao. Hai, không bao giờ từ bỏ làm việc. Làm việc cho con ý nghĩa và mục đích, và cuộc sống sẽ trống rỗng nếu không có nó. Ba, nếu con đủ may mắn để tìm thấy tình yêu, đừng vứt bỏ nó đi”.

Và ông được cả thế giới yêu mến, “trước hết như một nhà khoa học, thứ đến như một nhà văn phổ biến khoa học. Và cuối cùng, một người bình thường với cùng những ham muốn, nghị lực, ước mơ và tham vọng như mọi người”. Như giọt lệ trong phòng chiếu The Theory of Everything…