Ngọn lửa bên sông

Tháng 11/1969, là trợ lý dân vận của Ban Chính trị Trung đoàn, tôi được giao nhiệm vụ phối hợp Ban Dân vận của tỉnh Rạch Giá (nay là Kiên Giang) về huyện Gò Quao nắm tình hình, xây dựng cơ sở cách mạng trong dân, chuẩn bị cho hoạt động mùa khô của đơn vị sắp tới. Chúng tôi đi có giao liên dẫn đường.

Nữ giao liên điện đàm cấp báo thông tin. Ảnh tư liệu
Nữ giao liên điện đàm cấp báo thông tin. Ảnh tư liệu

1/Theo kế hoạch, đêm hôm đó chúng tôi từ Rạch Thầy Ngươn (xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Thuận) - nơi có vài ấp mới được giải phóng, vượt qua bốn con rạch và một cánh đồng trống để đến bờ sông Cái Lớn. Từ đây, khoảng 10 giờ đêm trở đi, nếu bên sông có ánh lửa là chúng tôi sẽ xuống qua bên đó. Bờ sông bên đó thuộc xã Thụy Liếu, huyện Gò Quao - nơi chính quyền Sài Gòn chiếm đóng với rất nhiều đồn bốt.

Khoảng hơn 21 giờ chúng tôi đã đến bờ sông Cái Lớn. Như vậy phải chờ vài tiếng nữa mới đến giờ hẹn. Chúng tôi tản ra dọc theo bờ sông đề phòng pháo địch bất ngờ bắn tới. Trời càng về khuya càng yên tĩnh, tôi nghe rõ tiếng pháo bắn cầm canh từ chi khu Gò Quao vọng lại. Một quả pháo sáng từ đồn bên sông bắn lên treo lơ lửng trên không trung soi rõ cả một vùng sông nước. Rồi bóng tối khép lại.

Bỗng từ bên sông một ánh lửa lóe lên, rồi một ngọn lửa mỗi lúc một to, một cao. Cô giao liên lưng đeo bồng, vai khoác khẩu AK đi đến từng người nhắc nhở: “Các đồng chí chuẩn bị xuống xuồng, qua sông”.

Cô vừa quan sát ngọn lửa bên sông, miệng lẩm bẩm:

- Sao bữa nay lại đốt lửa sớm vậy ta? Mọi bữa thường là phải hơn 10 giờ đêm cơ mà!

Ngọn lửa mỗi lúc một bốc cao, soi rõ cả đám dừa nước bên kia sông. Bỗng có tiếng la lớn:

- Bên này có địch! Bên này có địch! Bên này…

Tiếng kêu loang ra mặt sông trong đêm yên tĩnh, chúng tôi nghe rất rõ.

Tiếng kêu im bặt bởi những loạt đạn nổ chát chúa. Rồi từng loạt đạn từ bên sông bắn về phía chúng tôi. Theo lệnh của cô giao liên, tất cả chúng tôi nằm sau những mô đất và gốc dừa để tránh đạn thẳng. Bỗng mặt sông sáng lòa: Tiếng máy tàu chiến nổ ầm ầm rền vang cả một khúc sông. Thì ra hai chiếc tàu chiến của địch, chúng tắt máy thả trôi phục kích trên sông, giờ chúng bật đèn pha và bắn như vãi đạn vào những vạt dừa nước hai bên bờ sông. Một quả đạn cối bay rào rạt qua đầu rồi nổ cách chỗ chúng tôi chừng trăm mét. Rất may là chúng tôi rời bến sông an toàn. Nếu không có tiếng la bên sông, chúng tôi khó lòng sống sót khi vượt sông tối đó.

*

2/Câu chuyện về người la lớn bên sông, báo cho chúng tôi bên ấy có địch sẽ bị lãng quên trước bao sự kiện diễn ra dồn dập bởi chiến tranh… nếu như sau đó gần một năm tôi không tình cờ gặp được nhân chứng sống về việc này. 

Tháng 10/1970, tôi về Đại đội 2, Tiểu đoàn 207 - Bộ đội địa phương tỉnh Rạch Giá (nay là Kiên Giang) để tìm hiểu về thành tích chiến đấu của tân binh Huỳnh Văn Đém. Năm đó Đém chưa đầy 16 tuổi. Cậu có nước da ngăm đen, mái tóc đỏ quạch vì nắng gió. Đặc biệt Đém có đôi mắt rất sáng trên khuôn mặt đầy vẻ cương nghị. Đém rất ít nói. Tôi làm quen với Đém bằng cách đưa gói thuốc rê mời cậu ta hút.

- Tôi không hút thuốc! Đém trả lời.

Đây là điều lạ với tôi. Bởi lẽ, đã là con trai đất Nam Bộ, khi đã biết cầm cây phản phát cỏ cấy lúa thì gần như 100% đều biết vấn thuốc sâu kén để hút. 

- Sao không hút vậy? Tôi hỏi.

- Nhìn thấy thuốc là nhớ nội lắm! Đém trả lời.

Sau một thoáng im lặng, Đém kể cho tôi nghe về trường hợp hy sinh của ông nội cậu ta:

- Nội tôi quê ở huyện Châu Thành, tỉnh Rạch Giá, nhưng tổ chức đưa ông về Thụy Liễn huyện Gò Quao công tác. Hằng ngày, nội và tôi thả vịt trên đồng, tối lại lùa về quanh chiếc lán được cất ngay bên bờ sông Cái Lớn - nơi mà đêm đêm bộ đội và du kích thường qua lại bên sông này. Ông cháu tôi làm nghề chăn vịt để che mắt địch, còn nhiệm vụ chính là cảnh giới cho “đằng mình” qua lại bến sông này.

Bữa đó, cũng như mọi hôm, sau một ngày chăn vịt trên đồng, ông cháu tôi lùa vịt về khu lán. Hôm đó nội bảo ăn cơm sớm hơn mọi ngày vì tối có việc quan trọng. Ăn xong, ông cầm chiếc áo lên rồi lần tìm gói thuốc rê. Gói thuốc chỉ còn ít sợi. Nội bảo: Bay vô ấp kiếm cho nội bịch thuốc nghe! Lúc đó đã gần 9 giờ tối, tôi rời lán, băng qua cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ để đến ấp mua thuốc cho ông.

Mua thuốc xong, tôi đang định hỏi mua thêm gói trà và lọ dầu gió thì thấy có ánh lửa nơi bến sông. Linh tính báo cho tôi việc chẳng lành. Tôi cầm bịch thuốc và chạy thục mạng về bến sông. Ngọn lửa mỗi lúc một cao. Vừa chạy tôi vừa nghĩ: “Sao đêm nay nội lại đốt lửa sớm vậy?”. Năm phút, rồi bảy phút. Bỗng từng loạt đạn nổ. Khi chỉ còn cách lán chừng hơn trăm mét, tôi phải nằm phía sau bờ ruộng để nghe ngóng. Tôi nghe rõ tiếng bọn lính quát tháo. Một thằng có lẽ là chỉ huy, chửi thề: 

- Đ.m! Nó la lớn vậy, bên kia sông bọn Việt cộng chạy hết rồi. Phục kích con mẹ gì nữa! Về tụi bay!

Đạn bay chíu chíu qua đầu tôi. Trên sông, hai chiếc tàu chiến quét đèn pha và bắn như vãi đạn vào những vạt dừa nước hai bờ sông. Ngọn lửa bắt đầu lụi dần. Qua ánh đèn pha của tàu chiến tôi thấy bọn lính đang rời bến sông trở về đồn. Tôi bật dậy chạy về lán. Trước mắt tôi, chiếc lán đã bị chúng phá tan tành. Không thấy nội đâu. Tôi chạy ra bến sông. Tôi rụng rời chân tay khi thấy nội nằm nghiêng trên vũng máu. Tôi chỉ biết gào lên trong tuyệt vọng. Thì ra chúng đã bắn ông khi ông la lớn báo cho mọi người bên sông đừng sang nữa!

Du kích và bà con cô bác trong ấp đã đến đưa nội tôi đi mai táng. Trước khi xa nội, tôi cầm bịch thuốc để trên mộ và lòng thầm hứa sẽ trả thù. Sau đó tôi vào đơn vị Tiểu đoàn 207 này chiến đấu cho đến hôm nay. 

Sự hy sinh của ông nội Đém đã trở thành động lực để Huỳnh Văn Đém sống và chiến đấu cùng Tiểu đoàn 207 tiến về giải phóng quê hương trong ngày toàn thắng 30/4/1975.