Lộ trình xử lý nợ xấu
Ngược trở lại thời điểm cuối tháng 4-2012, khi Quyết định 780/QĐ-NHNN về việc phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ có hiệu lực, đã được ví như một "liều thuốc" đặc trị đối với doanh nghiệp. Bởi nếu không có quyết định này, rất nhiều doanh nghiệp không thể vay vốn của ngân hàng đầu tư và sống sót qua cơn khó khăn của thị trường. Tuy nhiên, "liều thuốc" đặc trị chỉ là tạm thời trong giai đoạn cả tổ chức tín dụng (TCTD) cũng như phía khách hàng tiếp cận vốn cùng gặp khó khăn. Còn xét về lâu dài, vấn đề NX vẫn cần phải được làm rõ bản chất theo tiêu chuẩn quốc tế. Và để đưa NX về đúng thực chất cũng phải làm từng bước gắn với khả năng xử lý.
Trong bối cảnh hiện nay, quan ngại về việc thực hiện Thông tư 02 từ ngày 1-6 tới đây, sẽ ảnh hưởng đến các bên liên quan và cả nền kinh tế là có cơ sở. Nếu phân loại NX một cách nghiêm túc, bản thân các TCTD chắc chắn phải tăng trích lập dự phòng rủi ro. Điều đó sẽ tác động trực tiếp đến nguồn vốn có khả năng cho vay. Trong trường hợp NX quá lớn, thậm chí TCTD còn mất vốn, đe dọa nguy cơ phá sản. Bản thân đối tượng đi vay cũng bị ảnh hưởng không kém. Các ngân hàng đều có một hệ thống quản lý chung, nếu một doanh nghiệp vay ngân hàng này mà có một khoản NX thì lập tức thông tin ấy sẽ đến với tất cả các đơn vị khác, gần như doanh nghiệp sẽ không còn "cửa" vay được nữa.
Năm 2014, dự báo sẽ tạo nên gánh nặng về vấn đề xử lý NX, do đó chúng ta phải làm chặt choe hơn và cần phải có lộ trình để các TCTD và doanh nghiệp chuẩn bị trước khi thực hiện Thông tư 02. Chính vì vậy, ngày 18-3, NHNN đã có bước đi chủ động và linh hoạt ban hành Thông tư 09/2014/TT-NHNN (bổ sung sửa đổi một số điều của Thông tư 02) theo hướng điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tế Việt Nam, trong khi kiên định tiệm cận các chuẩn mực quốc tế về phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro. Như vậy, kể từ ngày 1-6, hàng loạt văn bản như Chỉ thị 05/2005/CT-NHNN về việc thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN hết hiệu lực thi hành. Đồng thời Chỉ thị số 04/CTNHNN ngày 17-9-2013 về việc phân loại nợ đối với nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xử lý NX và Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23-4- 2012 về việc phân loại nợ đối với nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ cũng hết hiệu lực thì việc xử lý NX sẽ chuyển sang giai đoạn mới, thực chất và hiệu quả hơn theo Thông tư 02 và Thông tư 09.
Bốn vấn đề cần được làm rõ
Vấn đề xử lý NX có thể sẽ được đẩy nhanh thông qua công cụ đặc biệt là Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Có ý kiến cho rằng, việc VAMC ra đời đã giúp giảm áp lực cho TCTD, giúp họ có điều kiện cũng như thời gian tái cấu trúc. Song, nếu chúng ta không đưa được NX ra khỏi bảng cân đối tài sản thì các TCTD sẽ không thể tự tái cơ cấu được. Đúng ra, khi mua NX nếu VAMC có tiền thì họ trả cho các TCTD bán bằng tiền mặt, nhưng vì không có tiền nên họ trả bằng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành (là giấy tờ có giá trị được NHNN bảo đảm). Việc TCTD có trái phiếu đặc biệt này có thể thế chấp để tái cấp vốn hay giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, phụ thuộc vào việc mở "van" dần của NHNN. Bởi, mục tiêu kinh tế cao nhất của VAMC là thu hồi các khoản NX. Tuy nhiên vấn đề liên quan đến việc VAMC phải xử lý các tài sản thế chấp như thế nào để tối đa hóa giá trị thu hồi được từ xử lý NX mới là nhiệm vụ quan trọng nhất của VAMC, chứ việc mua lại các khoản NX với cả trăm nghìn tỷ đồng mà không có cách xử lý thì không tạo ra dòng tiền nào cả, chỉ đơn thuần là chuyển NX từ NHTM sang VAMC.
Theo Thông tư 19 của NHNN quy định về việc mua, bán và xử lý NX của VAMC cũng như việc phát hành, quản lý và thanh toán trái phiếu đặc biệt được ban hành từ ngày 6-9- 2013, song cho đến nay VAMC cũng mới chỉ xử lý được khoảng 1% tổng số NX đã mua do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nổi lên vướng mắc về các quy định liên quan đến phát mãi hay xử lý tài sản thế chấp. Ngoài ra, đa số các khoản NX đều gắn với tài sản bảo đảm, tài sản thế chấp mà chủ yếu liên quan đến bất động sản và một phần là hàng tồn kho. Cho nên muốn đẩy mạnh việc giải tỏa NX trong thời gian tới thì cần phải giải phóng được bất động sản, hàng tồn kho, cùng với việc hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan đến tài sản thế chấp.
Thông thường, các TCTD, NHTM có thể tự họ xử lý được NX, nhưng do quy định pháp lý còn quá phức tạp, nghiêng về bảo vệ lợi ích của người đi vay trong khi lại không gắn chặt trách nhiệm với họ nên việc phát mãi tài sản thế chấp không đơn giản. Hơn nữa, việc thỏa thuận giữa tổ chức, người cho vay và người đi vay liên quan đến việc định giá tài sản bảo đảm, thế chấp cũng còn nhiều bất cập. Muốn khắc phục những hạn chế bất cập này thì một mình NHNN không thể xử lý được mà cần có sự vào cuộc tích cực của các cơ quan liên quan.
Việc xử lý NX trong thời gian tới có bốn vấn đề phải tiếp tục làm đó là: Thứ nhất, bản thân TCTD phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro đầy đủ và chủ động sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý NX. Thứ hai, VAMC tích cực mua lại và xử lý NX. Thứ ba, kiểm soát chặt chất lượng tín dụng của những khoản vay mới gắn với đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Thứ tư, nghiêm túc triển khai thực hiện Thông tư 02 và Thông tư 09 về phân loại nợ vì nó gắn với việc trích lập dự phòng rủi ro.