Kỳ 1: Nhắc đến chỉ biết bùi ngùi
Kỹ năng khéo léo, kỹ thuật điêu luyện, kinh nghiệm và bí quyết độc đáo… của người thợ tài hoa, theo thời gian đúc kết thành những tuyệt kỹ nghề. Sự lưu truyền vốn quý đó có tính chất quyết định đến sự tồn vong của nghề thủ công, làng nghề và cả dòng họ, gia đình làm nghề. Bởi thế, vai trò của những nghệ nhân cao tay - người nắm giữ những tuyệt kỹ, tinh hoa trong việc truyền nghề vô cùng quan trọng. Nhưng nay, nghĩ về những di sản đó, kèm theo là tâm tư hoài niệm hoặc lo lắng chẳng mấy nữa sẽ không còn.
Niềm tự hào tinh hoa
Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Quốc Sự ở làng thêu Quất Động (huyện Thường Tín, Hà Nội) là một trong những người ý thức rất rõ về giá trị của tuyệt kỹ, tinh hoa nghề. Ròng rã nhiều năm qua, ông Sự đã miệt mài đào tạo được hơn 200 thợ giỏi. Ông Sự diễn giải: Khi sản phẩm tinh xảo bán được, sẽ giúp người thợ, nghệ nhân sống tốt với nghề.
Ông Sự chia sẻ, từ xa xưa, nghề thêu đã có những kỹ thuật tinh tế, đòi hỏi người thợ phải không ngừng nâng cao tay nghề. Thêu tay truyền thống có 9 kỹ thuật cơ bản: Lướt vặn, đâm sô, bó bạt, thêu bỏ, thêu bạt, sa hạt, nối đầu, khoắn vảy và thêu chăng chặn, thợ giỏi phải thành thạo các kỹ thuật này. Ở Quất Động, nghệ nhân Hoàng Thị Khương với đôi tay tài hoa đã tạo nên những bức tranh thêu đầy cảm xúc khiến người xem phải trầm trồ thán phục bởi những đường nét tươi mới, sinh động, ánh lên cái thần thái của tranh. Với những sợi chỉ mầu, qua đôi bàn tay khéo léo và đầu óc tưởng tượng, hình người, cảnh vật hiện lên sáng rõ. Theo bà Khương, nhiều năm qua, những người thợ làng nghề Quất Động tự hào về kỹ thuật thêu hai mặt. Tranh thêu hai mặt được làm trên chất liệu voan mỏng, dùng chỉ thêu bằng tơ tằm được nhiều người ưa chuộng.
Xứ Thanh cũng là mảnh đất đặc biệt với nhiều làng nghề truyền thống. Làng nghề đúc đồng Trà Đông, huyện Thiệu Hóa không chỉ là nơi hội tụ nhiều “nhà kỷ lục” mà còn có nhiều nghệ nhân nắm giữ cách làm trống và đồ đồng độc đáo, tăng giá trị cho mỗi sản phẩm. Đó là các nghệ nhân Nguyễn Bá Châu, Đặng Ích Hoàn, Lê Văn Bảy, Lê Văn Dương…, hay người nghệ nhân học nghề của Trà Đông là Thiều Quang Tùng. Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Bá Châu cho hay: Để làm được mỗi sản phẩm tinh xảo, giá trị cao, người nghệ nhân, người thợ phải hiểu công việc mình làm. Trong quá trình làm thì ở mỗi công đoạn đều phải khéo léo, tỉ mỉ. Với sản phẩm trống đồng, quá trình làm khuôn đúc trống có rất nhiều công đoạn, từ đắp lên khuôn, tạo hình rồi làm hoa văn rồi nung đốt, cuối cùng đến lúc nấu đồng rót vào khuôn, cuối cùng là công đoạn làm nguội. Trong đó, kỹ thuật làm khuôn rất quan trọng vì nó quyết định chất lượng của sản phẩm.
![]() |
| Nghệ nhân Đỗ Đình Hòe (Phú Xuyên, Hà Nội) giới thiệu về sự công phu của kỹ thuật đục, chạm tranh gỗ. |
Khi làng nghề không còn nghề
Làng An Cốc, xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên (Hà Nội) từng là một làng nghề làm giấy dó sôi động, nhưng đã mất nghề từ nhiều năm qua. Từ năm 2008, địa phương đã cố gắng vực dậy làng nghề, nhưng rồi lại đâu vào đấy khi các phương thức bảo tồn, giữ nghề không thật sự tốt. Cụ Nguyễn Văn Bảo, một lão nông ở làng, chia sẻ: Kỹ thuật làm thì giờ chỉ còn vài người nhớ, nhưng nghề đã không tồn tại nhiều năm, bao nhiêu năm qua, người làng đi tứ xứ làm ăn và có lẽ, cũng chỉ nhớ đến nghề vào ngày giỗ tổ nghề.
Cũng ở miền đất trăm nghề Hà Nội, sự sung túc của nhiều làng nghề như giấy dó Vân Canh và tranh sơn mài Kim Hoàng (huyện Hoài Đức), đúc đồng Ngũ Xá (quận Ba Đình), giấy sắc Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy), nhạc cụ Đào Xá (Ứng Hòa), sơn mài Đông Mỹ (Thanh Trì)… chỉ còn trong ký ức của người già, hoặc chỉ còn một vài người yêu nghề truyền thống cha ông, quyết tâm gìn giữ. Nhiều làng của Hà Nội hoặc các vùng lân cận Thủ đô, ngày xưa có nghề đóng cối, bật bông dạo, đẽo cổ cày vai bừa (vốn là nghề thông dụng ở vùng quê) nay đã vắng bóng hẳn trong cuộc sống hiện đại.
Xưa, the La Khê (Hà Đông) nổi tiếng bởi các mẫu sản phẩm đẹp được bày bán ở rất nhiều khu thương mại. Bây giờ làng chỉ còn duy nhất vợ chồng anh Lê Đăng Toản (còn gọi là Tưởng) duy trì nghề dệt the. Anh Toản cho biết, để có sản phẩm đẹp phải làm mất rất nhiều công sức, song lại khó tiêu thụ. Từ đó mà người làng bỏ nghề. Những người trẻ đi học, làm những công việc khác có thu nhập cao hơn. Những tấm the đẹp, với họa tiết cầu kỳ hình tứ quý, tứ linh, song hạc, hay mẫu hoa văn hình chữ thọ, chữ khang, hoa sen… dần dần trở nên xa lạ với lớp trẻ.
Nghề làm giấy sắc ở làng, nay là phường Nghĩa Ðô (quận Cầu Giấy) cũng chịu cảnh tương tự vì không còn chỗ đứng. Giấy sắc được biết đến là sản phẩm thủ công với kỹ thuật cao, hoa văn tinh xảo, tô vàng mười. Dòng họ Lại một thời tự hào vì đây là nghề độc nhất vô nhị, được chúa Trịnh Tráng (đầu thế kỷ 17) giao cho đặc ân làm giấy sắc để phục vụ triều đình. Đến nay, chỉ còn ông Lại Phú Thạch giữ tuyệt kỹ của nghề, vẫn đau đáu về một cách nào đó để sau này, người trẻ biết được từng có một thứ nghề như thế trong lịch sử.
Nhiều thứ đang mất dần…
Vài thí dụ nữa về sự đang mất đi, có thể kể đến kỹ thuật làm sơn mài trên tre đan, một di sản rất hiếm hoi ở thôn Cát Đằng, xã Yên Tiến, huyện Ý Yên, Nam Định. Được biết, cụ nghệ nhân cao tuổi còn lại đã mất và trong làng gần như không còn ai làm nữa. Một kỹ thuật khác gần như sắp mất là cách châm kim quạt giấy ở làng Vác huyện Thanh Oai, Hà Nội. Làng quê này vào những năm 90 thế kỷ trước, nghề làm quạt giấy mai một, người dân chuyển dần sang làm lồng chim và nay đã trở thành nghề phổ biến. Theo anh Ngô Quý Đức, người sáng lập không gian Phường Bách Nghệ, cho đến nay chỉ còn một người phụ nữ giữ được cách làm này, đã ở vào tuổi 70. Cùng với đó là một gia đình hai vợ chồng làm quạt sừng giấy dó. Nhưng người chồng đã bị tai biến, gần như không làm nữa, chỉ có người vợ cố gắng giữ nghề.
Có nhiều năm khảo sát các làng nghề, gặp gỡ các nghệ nhân, anh Ngô Quý Đức đã đến vài trăm làng nghề. Hồi tưởng lại, anh nhớ hồi bé còn được thấy nhiều sản phẩm thủ công bày bán, trưng bày trên phố, như chiếc trống, cái quạt giấy, chiếc hộp sơn mài, đồ mây tre, tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ, chiếc tủ khảm tinh xảo… “Lớn lên, tôi thấy chúng đang mất đi”, anh Đức tiếc nuối. Năm 2016, thực hiện một dự án cá nhân anh về nhiều làng nghề quanh Hà Nội, gặp lại những sản phẩm mà mình từng thấy khi còn bé. Tìm hiểu, anh càng nhận ra tình trạng khó khăn của rất nhiều làng nghề.
Anh Đức còn kể một thực tế. Đến nhiều gia đình nghệ nhân có tiếng là tay nghề giỏi nhưng không thấy có những sản phẩm tinh xảo, thể hiện tay nghề khéo léo, kỹ thuật tinh tế của họ. Bởi các nghệ nhân cũng phải mưu sinh, nên có thể ban đầu họ không muốn nhưng về sau vẫn phải bán đi những sản phẩm quý giá trong nhà, ngay cả những sản phẩm ông cha để lại. “Trong thời đại hiện nay, việc giữ tinh hoa một nghề nào đó không phải là cho gia đình, cá nhân người thợ nữa. Mà cần chia sẻ ra cho cộng đồng, cho những người quan tâm mong được học nghề đó. Vốn quý đó cần phải được bảo tồn vì nó đã trở thành tinh hoa của đất nước. Nếu để mai một sẽ rất lãng phí”, anh Ngô Quý Đức lo lắng.
Nghề làm giò ở làng Chèm, phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội từng tồn tại lâu năm, nổi tiếng trong câu nói “Giò Chèm, nem Vẽ”. Tuy không lan tỏa rộng như giò Ước Lễ, nhưng sản phẩm ở đây từng bán phổ biến trên địa bàn, là sản vật của người dân sở tại mời khách thập phương vào các dịp lễ Tết, giỗ chạp. Nhưng nhiều năm qua, việc làm giò cũng trở nên “èo uột”, chỉ còn vài hộ làm với quy mô nhỏ.
(Còn nữa)
