Xây dựng hệ sinh thái phù hợp

Phát triển du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững, hướng tới thực hành Net Zero không chỉ là xu hướng, mà còn là yêu cầu tự thân mang tính cấp bách của toàn ngành, đòi hỏi phải có chiến lược tổng thể và những bước đi theo lộ trình phù hợp.
Suối Rao Ecolodge là đơn vị tiên phong trong hành trình tiến tới trung hòa carbon.
Suối Rao Ecolodge là đơn vị tiên phong trong hành trình tiến tới trung hòa carbon.

Thời gian qua, một số địa phương, điểm đến của Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để “xanh hóa” các sản phẩm, dịch vụ du lịch. Một số cơ sở lưu trú tại Quảng Ninh, Ninh Bình, Đà Nẵng, Huế, Quảng Nam, Phú Quốc… đã đầu tư hệ thống năng lượng mặt trời để cung cấp điện cho hoạt động của cơ sở, áp dụng phân loại, tái chế rác thải, loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng nhựa dùng một lần, đưa xe điện vào khai thác vận chuyển khách… Bên cạnh đó, nhiều tour xanh đã ra đời như: Net Zero tours Bến Tre, tour khám phá hang động tại Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình), tour xem rùa đẻ trứng ở Hòn Bảy Cạnh (Côn Đảo), tour tắm rừng tại Khu dự trữ sinh quyển thế giới Đồng Nai, hay tour du lịch canh nông ở Trà Vinh… Tuy nhiên, có một thực tế là, các doanh nghiệp du lịch Việt Nam chủ yếu chỉ hoạt động ở quy mô vừa và nhỏ, thiếu tính liên kết, trong khi quá trình chuyển đổi sang Net Zero đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn vào năng lượng tái tạo, công nghệ xanh, cơ sở hạ tầng… cùng sự kết nối chặt chẽ. Chưa kể, tư duy và triết lý kinh doanh của nhiều doanh nghiệp du lịch vẫn chưa kịp chuyển đổi, việc thay đổi nhận thức, thói quen của du khách hướng đến mục tiêu Net Zero cũng là thách thức…

Vì vậy, để tích hợp vấn đề khử carbon vào tất cả các khâu trong hoạt động du lịch, các chuyên gia cho rằng phải xây dựng được một hệ sinh thái du lịch Net Zero với sự chung tay của tất cả các bên, từ chính phủ, doanh nghiệp tới du khách. Theo ông Trương Minh Huy Vũ, Viện trưởng Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, thúc đẩy chuyển đổi xanh hướng tới du lịch Net Zero cần có hành động tập thể và lộ trình cho các mục tiêu trung, dài hạn, tùy thuộc vào bối cảnh để từng bước chuyển đổi và hạn chế các “cú sốc” về kinh tế-xã hội. Các giải pháp chi tiết phải đi kèm kế hoạch hành động, phân bổ nguồn lực, đánh giá tác động và lộ trình triển khai thực hiện, và đặc biệt không thể thiếu những yếu tố đòn bẩy đến từ chính sách hỗ trợ của nhà nước. Bên cạnh nỗ lực của cơ quan quản lý du lịch với chính sách hỗ trợ phát triển các dịch vụ phụ trợ du lịch, hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các cơ sở lưu trú có giải pháp chuyển đổi xanh, rất cần sự vào cuộc của các bộ, ngành khác, chẳng hạn như Bộ Ngoại giao với chính sách hỗ trợ về visa và cư trú đối với khách du lịch quốc tế đăng ký các chương trình du lịch xanh tại Việt Nam; Bộ Giao thông vận tải với chính sách về giao thông vận tải phát thải thấp; Bộ Công thương với cơ chế, chính sách thúc đẩy tiêu dùng xanh; Bộ Xây dựng với chính sách lồng ghép các yêu cầu kỹ thuật về mảng xanh đô thị; Bộ Kế hoạch và Đầu tư với chính sách ưu đãi thu hút đầu tư các dự án phát triển hạ tầng xanh, huy động nguồn lực tài chính xanh…

Đứng ở góc độ của một chuyên gia về môi trường và tài chính xanh, Thạc sĩ Trần Hương Giang, Giám đốc chuyên môn Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tâm Việt nhấn mạnh, để thúc đẩy sự chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính đến kinh tế tuần hoàn, các địa phương cần tạo điều kiện khuyến khích sự hình thành các cụm ngành hỗ trợ chuyển đổi xanh như các hoạt động kiểm toán, truy xuất carbon, chứng nhận phát thải, tư vấn và nghiên cứu về trung hòa phát thải; bên cạnh đó, tạo môi trường thân thiện để các nguồn vốn đầu tư xanh chảy vào. Các tổ chức, doanh nghiệp du lịch trong quá trình thực hiện các dự án chuyển đổi hoạt động sản xuất, kinh doanh theo hướng giảm phát thải có thể huy động nguồn lực tài chính quốc tế thông qua tạo tín chỉ bù đắp carbon. Bên cạnh đó, đòi hỏi về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có thể từng bước cải thiện thông qua tích hợp nội dung phát triển bền vững vào các chương trình đào tạo chuyên ngành ở các trường, tổ chức giáo dục…

Góp giải pháp nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của du khách trong thực hành du lịch Net Zero, nhiều chuyên gia cũng cho rằng, cùng với đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, cần có những biện pháp kích thích du khách quan tâm và hào hứng hơn với hành trình du lịch Net Zero, như: cấp chứng chỉ tham gia giảm thải carbon, có ưu đãi với các du khách tham gia nhiều Net Zero Tours… Nhìn sang Thái Lan, có thể thấy quốc gia này đang có những bước đi rất nhanh trong thực hiện định hướng du lịch Net Zero. Thay vì chỉ hô hào khuyến khích, quốc gia này đã xây dựng cả hệ thống xác định dấu chân carbon thông qua ứng dụng Zero Carbon và sự vào cuộc của các bên kiểm toán; cùng với đó là một lộ trình Net Zero cụ thể với các công cụ, sách hướng dẫn chi tiết. Tại Hội chợ Du lịch quốc tế ITB Berlin 2024, Thái Lan đã giới thiệu 125 gói du lịch trung hòa carbon, thu hút sự chú ý của nhiều đối tác quốc tế. Cách làm của nước bạn chính là gợi ý hữu ích để Việt Nam có thể tham khảo trên hành trình hiện thực hóa du lịch Net Zero. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Hồng Long, Trưởng khoa Du lịch học, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cho hay, nước ta cũng đã có một số bộ tiêu chí về du lịch xanh, điểm đến xanh được công bố, nhưng hầu hết mới chỉ dừng ở mức khuyến nghị, các tiêu chí không đi kèm với các con số định lượng và hướng dẫn cụ thể nên dẫn đến khó triển khai. Vì thế, Việt Nam cần nhanh chóng có chiến lược tổng thể cũng như những bộ tiêu chí và hướng dẫn chi tiết để áp dụng rộng rãi ở các địa phương, điểm đến. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng các chứng nhận liên quan du lịch Net Zero để cấp cho các đơn vị đạt tiêu chuẩn. Cách làm này không những kích thích tốc độ chuyển đổi của doanh nghiệp, mà còn có nhiều ý nghĩa trong việc quảng bá, định hình thương hiệu du lịch có trách nhiệm, góp phần nâng cao nhận thức của người dân và du khách về du lịch Net Zero, từng bước đưa Việt Nam trở thành điểm đến hàng đầu khu vực và thế giới về du lịch xanh, du lịch bền vững.

Quá trình chuyển đổi có thể cần 10-20 năm để tạo không gian cho các bên liên quan triển khai đối thoại, thử nghiệm, học hỏi, tranh luận và điều chỉnh chính sách.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.