Xây dựng đội ngũ làm công tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật

Đội ngũ làm công tác lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện nay đang ngày càng thưa thớt, thiếu vắng những cây bút chuyên nghiệp, tâm huyết. Từ đây, đặt ra những yêu cầu mới đối với vấn đề xây dựng lực lượng này để đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tiễn.
Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Hàng năm, Hội Nhà văn Việt Nam đều xét kết nạp hội viên cũng như xét tác phẩm trao giải thưởng, tuy nhiên số lượng các tác giả, tác phẩm mảng lý luận, phê bình chiếm một số lượng rất khiêm tốn so với chuyên ngành thơ, văn xuôi. Như năm 2021, trong số 34 hội viên mới được kết nạp chỉ có 3 hội viên lý luận, phê bình. Đến năm 2022, hội viên lý luận, phê bình chỉ chiếm 2/44 hội viên mới được kết nạp.

Tình hình cũng không mấy khả quan ở các lĩnh vực nghệ thuật khác như điện ảnh, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu,... Nhìn ở các địa phương, ngoại trừ hai trung tâm văn hóa lớn là Hà Nội, TP Hồ Chí Minh do có những điều kiện thuận lợi giúp quy tụ được nhiều tác giả cả ở mảng sáng tác cũng như lý luận, phê bình, còn hầu hết các tỉnh, thành phố hiện nay đội ngũ những người làm lý luận, phê bình chuyên nghiệp gần như chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, sức hút của chuyên ngành lý luận, phê bình đối với người trẻ là vô cùng hạn chế.

Tại Trường đại học Sân khấu Ðiện ảnh Hà Nội, nhiều năm qua chuyên ngành lý luận, phê bình về múa, sân khấu, nhiếp ảnh của trường đã không có nổi một bộ hồ sơ dự tuyển. Khoa Lý luận, phê bình của Trường đại học Sân khấu Ðiện ảnh TP Hồ Chí Minh cũng đã bỏ trắng nhiều năm vì không có sinh viên.

Còn Trường đại học Văn hóa Hà Nội, việc đào tạo sinh viên chuyên ngành sáng tác và chuyên ngành lý luận, phê bình từng có thời gian được gộp chung trong Khoa Sáng tác và lý luận, phê bình văn học, tuy nhiên sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường, họa hoằn chỉ có vài người theo đuổi lĩnh vực lý luận phê bình. Điều này giúp lý giải cho sự xuất hiện khá ít ỏi của các tác giả hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Đây là một hiện trạng vô cùng đáng buồn. Bởi lẽ nền văn học nghệ thuật của mỗi quốc gia, bên cạnh lĩnh vực sáng tác không thể thiếu được hoạt động lý luận, phê bình. Vì hoạt động lý luận, phê bình văn học nghệ thuật là việc nghiên cứu, đưa ra các quan điểm, đánh giá về quá trình hình thành, phát triển của vănv học nghệ thuật, các trào lưu trường phái, các hiện tượng mới nảy sinh, phát hiện các giá trị, các quy luật, dự báo, phát hiện cái mới; đồng thời thẩm định, đánh giá tác phẩm, tác giả; từ đó tham gia điều chỉnh, định hướng cho sự vận động của văn học nghệ thuật.

Ở khía cạnh nhất định, lý luận, phê bình góp phần khích lệ, kích thích sự sáng tạo của các văn nghệ sĩ để có những tác phẩm chất lượng đáp ứng đòi hỏi của xã hội, mặt khác góp phần nâng cao thị hiếu, thẩm mỹ văn hóa cho công chúng. Do đó tình trạng “nghiệp dư hóa”, vừa thiếu vừa yếu của đội ngũ làm công tác lý luận, phê bình sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận động, phát triển lành mạnh của đời sống văn học nghệ thuật nước nhà.

Liên quan đến hoạt động lý luận, phê bình, tại Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới” ghi nhận: “Phê bình văn học nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới có tác dụng tích cực đối với sáng tác, phát hiện cái tốt, ủng hộ cái mới, tiến bộ trong hoạt động sáng tạo”.

Tuy nhiên Nghị quyết 23 cũng thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế đó là: “Hoạt động lý luận văn học nghệ thuật còn lạc hậu về nhiều mặt, chưa giải đáp được nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác, có biểu hiện xơ cứng, kém năng động, giảm sút tác dụng tích cực đối với sáng tác. Lý luận văn nghệ và mỹ học mác-xít chưa được nghiên cứu và phát huy tương xứng với vai trò và giá trị của nó. Hoạt động phê bình văn học nghệ thuật có biểu hiện tụt hậu so với yêu cầu, thực hiện chưa tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác. Chất lượng khoa học và tính chuyên nghiệp của phê bình bị xem nhẹ; xuất hiện lối phê bình cảm tính, thiếu một hệ thống tiêu chí tin cậy để đánh giá tác giả và tác phẩm, văn hóa phê bình bị hạ thấp...”.

Từ đó Nghị quyết 23 xác định mục tiêu thời gian tới, một trong số đó là: “Xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững chắc”.

Mới đây, ngày 15/5/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 515/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể về phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2023-2025 (Chương trình). Đáng chú ý trong phần nhiệm vụ và giải pháp, tại Điều 5 đề cập đến việc phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức và nguồn nhân lực quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học chất lượng cao trong lĩnh vực văn hóa, trong đó chỉ rõ: “Đào tạo, bồi dưỡng 100 chuyên gia, cán bộ chuyên môn về biên kịch, lý luận và phê bình, giám tuyển, giám định thuộc các lĩnh vực: điện ảnh, mỹ thuật, nghệ thuật biểu diễn và về giám định cổ vật”.

Nhiệm vụ đã đặt ra, vấn đề là làm thế nào để khắc phục sự thiếu hụt về lực lượng đồng thời từng bước nâng tầm đội ngũ làm công tác lý luận, phê bình văn học nghệ thuật để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thời đại?

Trước hết cần phải củng cố lực lượng hiện tại, giữ chân những người đã và đang làm công tác lý luận, phê bình bằng quan tâm, tạo điều kiện cơ chế, chính sách đãi ngộ phù hợp. Thực tế muốn có một sản phẩm lý luận, phê bình chất lượng người viết cần rất nhiều thời gian và sức lực để nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, luận giải... Nhưng sản phẩm dù đã hoàn thành song không phải lúc nào cũng dễ dàng tìm được nơi công bố. Các báo chí chuyên ngành dù luôn dành số trang nhất định cho mảng lý luận, phê bình song khó lòng đáp ứng hết nhu cầu của người viết, chưa kể số lượng phát hành có hạn, nhuận bút chưa tương xứng, không đủ sức động viên cũng như tái tạo sức lao động cho người làm công tác lý luận, phê bình.

Chưa kể, phần nhiều các tờ báo thường không mặn mà và cũng không thu xếp được trang mục dành cho các bài nghiên cứu chuyên sâu. Bởi vậy người viết vốn đã nhọc nhằn trong quá trình sáng tạo, lại phải vất vả tìm đầu ra cho đứa con tinh thần của mình. Để khắc phục tình trạng trên đây đòi hỏi ngành chức năng, Viện nghiên cứu, Hội nghề nghiệp cũng như các cơ quan báo chí về văn học nghệ thuật cần mở rộng diễn đàn dành cho lĩnh vực lý luận, phê bình, tận dụng tối đa lợi thế của báo điện tử và nền tảng mạng xã hội, đa dạng các hình thức đưa tác phẩm lý luận, phê bình đến với công chúng.

Đồng thời cần thực hiện chế độ nhuận bút phù hợp đối với các sản phẩm lý luận, phê bình; cũng như xem xét cơ chế đặt hàng, hỗ trợ, đãi ngộ đối với người làm công tác lý luận, phê bình, tạo điều kiện xuất bản các cuốn sách phê bình, tiểu luận chuyên sâu.

Thứ hai không ngừng phát hiện, bổ sung lực lượng, nhất là người trẻ. Như bất cứ một lĩnh vực, ngành nghề nào, đội ngũ làm lý luận, phê bình cũng rất cần một sự phát triển vững chắc trên cơ sở có sự tham gia của nhiều thế hệ, tạo sự liền mạch, không bị thiếu hụt nửa chừng. Vậy lực lượng những người làm lý luận, phê bình, nhất là những người trẻ, có thể bổ sung từ đâu? Chúng ta có các trường đại học chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn, có lực lượng đông đảo các nhà báo theo dõi mảng văn học nghệ thuật, các nghệ sĩ có khả năng viết lý luận, phê bình…

Nếu kịp thời phát hiện những người có tố chất, từ đó ngành chức năng, Viện nghiên cứu, Hội nghề nghiệp có những biện pháp động viên, khuyến khích, định hướng nghề nghiệp,... thì chắc chắn đây sẽ là nguồn bổ sung quý giá cho đội ngũ người làm lý luận, phê bình trong tương lai.

Thứ ba cùng với việc xây dựng, củng cố lực lượng, thì việc cần làm thường xuyên, liên tục đó là chú trọng công tác bồi dưỡng đào tạo, nâng cao trình độ, cập nhật thời sự cũng như kiến thức mới,... đối với đội ngũ làm công tác lý luận, phê bình, bảo đảm “sắc về chuyên môn, vững về bản lĩnh, tư tưởng, nhạy bén với thực tiễn”.

Do đặc thù của nghề nghiệp, người làm lý luận, phê bình đòi hỏi phải có tư duy khoa học và nghệ thuật, vừa nhạy bén vừa phải có bản lĩnh vững vàng để kịp thời nắm bắt, đánh giá, luận giải được những vấn đề, hiện tượng mới nảy sinh trong đời sống văn học nghệ thuật, từ đó góp phần định hướng thẩm mỹ cho công chúng. Không chỉ am hiểu các vấn đề trong nước, người làm lý luận, phê bình cũng cần được thường xuyên cập nhật những kiến thức, xu hướng sáng tác mới trên thế giới, sự tác động của các trào lưu nước ngoài đến Việt Nam,...

Chỉ có như vậy những công trình, bài viết của họ mới thực sự có giá trị chuyên môn và thực tiễn, phát huy hết vai trò của lý luận, phê bình trong đời sống. Do đó cùng với yêu cầu đặt ra cho mỗi người làm nghề cần chủ động học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao sự hiểu biết, thì việc tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, trong đó chú trọng việc tư vấn, định hướng hoạt động tiếp nhận lý luận, văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam với sự tham gia của những chuyên gia đầu ngành sẽ giúp rút ngắn thời gian cho người làm lý luận, phê bình, giúp họ nhập cuộc và thực hành nghề nghiệp thuận tiện và nhanh chóng hơn, tránh tình trạng tụt hậu, xa rời thực tiễn, lạc hậu, lúng túng trước những sự kiện, hiện tượng nổi cộm mới xuất hiện để rồi đưa ra những đánh giá phân tích phiến diện, lệch lạc, làm mất niềm tin của công chúng.

Đồng thời lựa chọn những văn nghệ sĩ, nghệ nhân, trí thức trẻ có năng lực, khả năng sáng tạo để đào tạo dài hạn, tham dự các khóa bồi dưỡng nâng cao ngắn hạn ở trong nước và nước ngoài như Quyết định số 515/QĐ-TTg đã chỉ ra.

Thứ tư, tổ chức nhiều hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực lý luận, phê bình như: tọa đàm, hội thảo nhìn nhận, đánh giá về các trào lưu, xu hướng mới xuất hiện ở Việt Nam và trên thế giới, thảo luận về những tác phẩm đang được dư luận quan tâm.

Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học nghệ thuật. Tổ chức và đẩy mạnh công tác quảng bá các giải thưởng dành riêng cho lĩnh vực lý luận, phê bình như một cách tôn vinh, biểu dương, ghi nhận những đóng góp, cống hiến thầm lặng của những người làm nghề chân chính. Giải thưởng cần có tính phát hiện, động viên, khích lệ những nhân tố mới.

Làm tốt những yêu cầu trên chắc chắn chúng ta sẽ từng bước xây dựng được đội ngũ người làm lý luận, phê bình vừa đông về số lượng, vừa chắc về trình độ.

Có thể bạn quan tâm

Diện mạo Thủ đô Hà Nội ngày càng khang trang, hiện đại. (Ảnh: QUANG THÁI)

Bài 3: Giữ vững “ý Đảng, lòng Dân”

Giữ vững “ý Đảng, lòng Dân” là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước, là cội nguồn sức mạnh, niềm tin chiến lược, điểm tựa tinh thần để dân tộc ta viết tiếp trang sử mới; đồng thời là “thành lũy” vững chắc, góp phần đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Sau 50 năm xây dựng và phát triển, hạ tầng Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng đồng bộ, hiện đại. (Ảnh: THẾ ĐẠI)

Nuôi ảo vọng “phục quốc” bằng chiêu trò “lật sử”

50 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975, nhưng những kẻ phản bội Tổ quốc vẫn ôm mộng xóa bỏ chế độ chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, nhằm thực hiện ảo vọng “phục quốc” ngông cuồng với những âm mưu, thủ đoạn vô cùng xảo trá, thâm độc.

Bàn giao nhà Đại đoàn kết cho gia đình hộ nghèo ở buôn Khăm, xã Suối Trai, tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh: MTTQ)

Thủ đoạn xuyên tạc nhân quyền Việt Nam dưới vỏ bọc “chứng cứ quốc tế”

Tại phiên họp lần thứ 60 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (UNHRC) diễn ra vừa qua tại Geneva (Thụy Sĩ), một số tổ chức thiếu thiện chí như Human Rights Watch (HRW), Amnesty International (AI) đã đưa ra cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền dựa trên dữ liệu phiến diện, chủ quan, nhưng được tô vẽ thành “chứng cứ quốc tế”.

Giờ học của học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV. (Ảnh: DUY LINH)

Bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy lý luận

Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, các yếu tố toàn cầu hóa, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, đặc biệt là chuyển đổi số, đang đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh chính trị quốc gia. 

Việt Nam được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028. (Ảnh: UN)

Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường phát triển

Những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong thực tiễn đã minh chứng rõ ràng: Việt Nam đang tiến bước vững chắc trên con đường phát triển, vị thế, uy tín quốc gia ngày càng được củng cố, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp nhận hàng viện trợ của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tặng người dân Bắc Ninh. (Ảnh: Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai)

Đoàn kết, chung sức vượt qua thiên tai

Biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt, kéo theo những hiểm họa bão lũ, động đất, sóng thần,... đe dọa sự an toàn của các quốc gia. Với bờ biển dài hơn 3.200km, địa hình đa dạng từ đồng bằng đến miền núi, Việt Nam thường xuyên hứng chịu mưa bão, lũ lụt và sạt lở đất, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm hỏi và tặng quà các mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình chính sách tiêu biểu tỉnh Đồng Tháp. (Ảnh: TÍN HUY)

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người

Việc Việt Nam tái đắc cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028 là sự ghi nhận xứng đáng của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người. Đó cũng là minh chứng rõ ràng, góp phần bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngày 25/3/2025. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)

Kiên quyết đấu tranh chống lãng phí tài sản công

Lãng phí nói chung, lãng phí tài sản công nói riêng gây thất thoát nguồn lực quốc gia, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước cũng như của mỗi địa phương, đơn vị. Thời gian qua, Tổng Bí thư Tô Lâm thường xuyên nhấn mạnh công tác đấu tranh chống lãng phí, coi đây là cuộc chiến “chống giặc nội xâm” đầy cam go, phức tạp.

Ngày 16/6/2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với 100% đại biểu có mặt tán thành. (Ảnh: DUY LINH)

Giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng

Thế giới hôm nay đang chứng kiến những biến động sâu sắc, khó lường. Xung đột vũ trang, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, khủng hoảng kinh tế-xã hội, biến đổi khí hậu, dịch bệnh toàn cầu… tạo nên những chấn động toàn diện, thử thách hệ giá trị, mô hình phát triển và hệ thống chính trị của nhiều quốc gia.

(Ảnh minh họa)

Phát huy mạnh mẽ “chủ quyền số” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng

Trong kỷ nguyên số, không gian mạng trở thành mặt trận nóng bỏng của đấu tranh tư tưởng, nơi ranh giới giữa đúng-sai, thật-giả hết sức mong manh. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, tư tưởng chính trị là điều căn cốt nhất quyết định bản chất cách mạng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Họp báo triển khai Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ 5, năm 2025. (Ảnh: HCMA)

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số

Công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời đại số cần kiên định về mục tiêu, linh hoạt về phương thức, lập luận xác đáng, thuyết phục, thông điệp nhân văn. Cùng nhau tạo dựng niềm tin cộng đồng, xây dựng “hệ quy chiếu” chuẩn mực, tin cậy để xã hội nhận diện và miễn dịch trước mọi mưu đồ xuyên tạc, phá hoại.

Lễ hoa đăng kính mừng Phật đản tại chùa Pháp Hoa, Thành phố Hồ Chí Minh thu hút đông đảo Phật tử, người dân tham dự. (Ảnh BTC)

Bản báo cáo thiếu khách quan về tình hình nhân quyền tại Việt Nam

Ngày 12/8/2025, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố Báo cáo tình hình nhân quyền năm 2024 của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Giống như báo cáo thường niên các năm trước, tài liệu này tiếp tục đưa ra những nhận định tiêu cực, phản ánh không đúng về tự do ngôn luận, báo chí, internet và tôn giáo ở Việt Nam.

Phong trào “Ngày Chủ nhật xanh - Hãy làm sạch biển” tại bãi biển Thuận An, thành phố Huế. (Ảnh BTC)

Quyết tâm ngăn chặn ô nhiễm môi trường

Ô nhiễm môi trường đã và đang trở thành một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21, đòi hỏi các quốc gia phải chung tay hành động. Với tư cách là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cam kết không ngừng nỗ lực xây dựng một môi trường xanh, sạch, đẹp, đồng thời thể hiện trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.