SỨC SỐNG VÀ TẦM VÓC CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trong xã hội hiện đại, dấu ấn con người và các trào lưu tư tưởng dễ bị lu mờ bởi những vấn đề đương đại nóng bỏng. Vượt qua thách thức đó, Hồ Chí Minh là hiện tượng hy hữu của lịch sử khi đã trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống và “độ lùi” của thời gian càng tôn vinh sức sống, tầm vóc tư tưởng của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9 năm 1960). (Ảnh Tư liệu)
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9 năm 1960). (Ảnh Tư liệu)

“Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”

Điều làm nên sức mạnh và sự trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là những đặc tính tiêu biểu toát lên từ tư tưởng của Người.

Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung căn cốt là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội hoàn toàn phù hợp với tính chất, quy luật của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười. Khát vọng tự do là đặc tính của con người nên khi chủ nghĩa thực dân đẩy vô số các dân tộc vào vòng nô lệ, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là xu thế tất yếu của thời đại. Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh trở thành đại diện của các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho quyền được làm người, quyền được sống trong bình đẳng và tự do. Được trang bị phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin và bằng sự trải nghiệm thực tiễn, Hồ Chí Minh đưa ra những phát kiến ở tầm thời đại về con đường cứu nước và phương hướng dựng nước của dân tộc Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Thực hiện tư tưởng của Người, dân tộc Việt Nam không chỉ giành được độc lập, tự do mà thắng lợi của nhân dân Việt Nam còn góp phần làm tan vỡ hệ thống thuộc địa trên quy mô toàn thế giới. Sau khi giành được độc lập, Việt Nam luôn kiên trì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ngay cả khi chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều nước trước đó lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa đã “bẻ ghi” theo con đường khác. Đi lên chủ nghĩa xã hội là quy luật tất yếu của lịch sử nên ngọn cờ “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí Minh đã giúp dân tộc Việt Nam có hướng đi hợp thời đại và loại bỏ “khúc quanh” không cần thiết. Nhờ đó, tương lai của đất nước ngày càng rạng rỡ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh bất hủ bởi biểu đạt những giá trị vĩnh hằng của nhân loại là hòa bình và hợp tác hữu nghị để cùng phát triển. Thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hóa hòa bình vì Người luôn nỗ lực giải quyết xung đột bằng con đường đối thoại văn hóa; khi buộc phải tự vệ thì Người chủ động hạn chế không gian chiến tranh ở Việt Nam để bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới. Hồ Chí Minh rất yêu chuộng hòa bình nhưng đó phải là hòa bình thật sự - hòa bình trong độc lập tự do, được làm chủ giang sơn và có quyền định đoạt số phận của dân tộc mình. Hồ Chí Minh đề cao tình hữu nghị giữa các dân tộc bởi trong tâm thức của Người luôn tồn tại tình cảm thiêng liêng, rộng lớn - tình yêu nhân loại. Với quan điểm “Quan sơn muôn dặm một nhà/ Vì trong bốn biển đều là anh em”, tình yêu của Hồ Chí Minh đã vượt qua giới hạn của “tình đồng bào” để vươn tới “tình đồng loại”. Vì thế, chung sống hòa bình và hợp tác hữu nghị là nguyên tắc hành xử của Hồ Chí Minh. Khi trở thành nguyên thủ của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, Người lập tức tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Thời kỳ “Chiến tranh lạnh” đã đẩy các quốc gia vào thế “đối đầu” nhưng Hồ Chí Minh vẫn có quan điểm vượt tầm thời đại là “các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Với tinh thần “tìm sự thống nhất trong đa dạng”, Hồ Chí Minh không chỉ là người có tư duy quốc tế hiện đại, tinh thần khoan dung văn hóa mà còn là đại sứ của Việt Nam trên khắp toàn cầu.

Tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống lâu bền bởi luôn hiện hữu tinh thần đổi mới và hội nhập - quy luật của cuộc sống và xu thế lớn của thời đại ngày nay. Có thể khẳng định: Hồ Chí Minh là con người đặc biệt nhạy bén với cái mới và luôn hướng tới cái mới, cái tiến bộ, hoàn thiện. Người từng định

nghĩa “cách mạng” từ góc độ này: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Với tinh thần đổi mới, Người không chỉ vận dụng mà còn phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhờ đó, cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi. Từ sự trải nghiệm thực tiễn, Người căn dặn cán bộ phải có tinh thần “tự chỉ trích”, tự đổi mới vì tình hình khách quan luôn thay đổi nên tư tưởng, hành động cũng phải thay đổi. Trong Di chúc để lại, dù không trực tiếp sử dụng khái niệm “Đổi mới” nhưng Người đã phác thảo một chiến lược đổi mới trên nét lớn và căn dặn: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Sự nghiệp Đổi mới do Đảng ta tiến hành trong gần 40 năm qua thực chất là sự “trở lại” và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ đó, thành tựu của nó thật sự vĩ đại. Hồ Chí Minh cũng có chủ trương hội nhập từ rất sớm. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người đã tuyên bố là Việt Nam sẵn sàng mở cửa, hợp tác với các quốc gia khác trên thế giới với điều kiện: Họ phải “thừa nhận nền độc lập của xứ này”. Ngày nay, hội nhập quốc tế toàn diện đã trở thành trào lưu mạnh mẽ nhưng vào những năm 40-thế kỷ XX, chủ trương của Hồ Chí Minh về hợp tác với các nước có sự khác biệt về ý thức hệ và thể chế chính trị, thật sự là tư duy hết sức mới mẻ. Trong thế giới hội nhập ngày nay, tư tưởng độc lập dân tộc và hội nhập quốc tế của Hồ Chí Minh càng tỏ rõ giá trị vì càng hội nhập thì nhu cầu độc lập càng mạnh mẽ. “Hòa nhập mà không hòa tan, độc lập mà không biệt lập” là phương châm ứng xử của Việt Nam và tinh thần ấy là do Hồ Chí Minh khởi xướng.

Biểu đạt xu thế thời đại và khát vọng vĩnh hằng của con người, hướng con người tới các giá trị lâu bền là chân - thiện - mỹ, cho nên, “thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”.

Soi đường cho dân tộc và thời đại

Tư tưởng Hồ Chí Minh bất hủ bởi trong đó là hình mẫu lý tưởng về đạo đức và văn hóa làm người. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cao nhất chính là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân và toàn nhân loại. Tư tưởng nhân văn - đạo đức Hồ Chí Minh với triết lý nhân sinh “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi” đã và sẽ đánh thức phần “thiện”, tinh thần “vì nghĩa” trong mỗi con người, giúp họ tìm ra lẽ sống đúng đắn và cách hành xử hợp đạo lý để có được hạnh phúc đích thực. Đối với dân tộc Việt Nam, việc thấm nhuần tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sẽ góp phần ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức trong Đảng và trong xã hội. Nhân loại từng kinh ngạc và thán phục khi Việt Nam - một quốc gia nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu đã thắng các cường quốc như Pháp và Mỹ; thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay cũng khó thấu hiểu cội nguồn những kỳ tích đó, nếu không hiểu biết về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh - đó chính là “chìa khóa” để giải mã lịch sử Việt Nam hiện đại. Năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khẳng định, cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và “kim chỉ nam” hành động của Đảng, nhưng thực chất thì ngay từ khi Đảng ra đời, đường lối cách mạng Việt Nam đã do Hồ Chí Minh hoạch định. Trong suốt chiều dài lịch sử, từ chống thực dân Pháp đến chống đế quốc Mỹ, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, đường lối của Đảng luôn in đậm dấu ấn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay cả khi Người đã đi xa, tính dẫn dắt, soi chiếu của tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn không thay đổi.

Sức sống bất hủ và tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm chứng bởi lịch sử. Giá trị biểu đạt và soi đường cho dân tộc và thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là lý do để thế giới thừa nhận: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ nơi nào chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.