Nuôi biển: Nhìn từ địa phương có nhiều tàu nhất

Sở hữu vùng biển rộng hơn 63.200 km2 và bờ biển dài hơn 200 km, tỉnh An Giang có tiềm năng lớn về tài nguyên, phát triển kinh tế, đặc biệt là nuôi biển. Tỉnh xác định, phát triển nghề nuôi biển là hướng đi chủ lực trong thời gian tới.

Không ít ngư dân giàu lên nhờ nuôi biển.
Không ít ngư dân giàu lên nhờ nuôi biển.

Không còn hộ nghèo nhờ đổi mới phương thức

Đặc khu Kiên Hải (tỉnh An Giang) có diện tích khoảng 3.350 km2, trong đó diện tích biển hơn 3.325 km2 và hơn 23 hòn đảo lớn nhỏ, có 13 ấp với dân số là gần 23.000 người. Các đảo phân bố rải rác trên vùng biển Tây Nam. Đây là địa bàn có tiềm năng, lợi thế rất lớn về phát triển kinh tế biển và dịch vụ du lịch, trong đó có nuôi biển.

Ba năm qua, ông Mai Văn Hiệp, ở ấp An Phú, đặc khu Kiên Hải được Trung tâm Khuyến nông tỉnh An Giang hỗ trợ thực hiện mô hình nuôi cá mú trân châu bằng lồng được làm từ vật liệu nhựa (High-Density Polyethylene - HDPE) thuộc dự án Khuyến nông Trung ương. Thời gian qua, cá của ông Hiệp phát triển tốt, tỷ lệ sống 91,9%. "Lồng HDPE có thể chịu được sóng to, độ bền hơn, và có thể nuôi ngoài xa khơi. Thời gian qua, tôi sử dụng thức ăn công nghiệp cho cá, nên ít bệnh, tỷ lệ sống cao. Với mô hình mới này, hàng năm tôi nuôi cá có lợi nhuận khá hơn", ông Hiệp chia sẻ.

Còn bà Võ Thị Thắm, ấp Hòn Tre, đặc khu Kiên Hải thả nuôi cá mú các loại, cá cam, cá bớp, cá chim vây vàng... trong 40 lồng nhựa, trung bình mỗi năm xuất bán gần 40 tấn cá các loại, thu lời khoảng 1 tỷ đồng/năm.

Theo Bí thư đặc khu Kiên Hải Nguyễn Quốc Tuấn, đến nay, toàn đặc khu Kiên Hải có 215 hộ nuôi, 1.189 lồng, tổng thể tích trên 756.000m3 nuôi các loài cá có giá trị kinh tế cao như: Cá bớp, cá mú các loại, cá chim vây vàng… Hiện toàn đặc khu Kiên Hải đã triển khai thí điểm 15 mô hình trong lồng HDPE bằng thức ăn công nghiệp kết hợp trồng rong sụn.

"Địa phương đạt sản lượng trung bình 1.200 tấn/năm, và trong tám tháng đầu năm 2025, sản lượng thủy sản ước đạt 900 tấn. Qua đó tạo việc làm ổn định và sinh kế cho 1.200 lao động phổ thông, nâng thu nhập bình quân đầu người của đặc khu năm 2024 đạt 73,25 triệu đồng/người/năm. Hiện đặc khu không còn hộ nghèo, đồng thời thực hiện chủ trương xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn đạt 100%", ông Tuấn cho hay.

Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về thu hút đầu tư nuôi biển, đến nay Tập đoàn Mavin và Công ty Australis Việt Nam đã khảo sát chọn vùng nuôi biển công nghiệp ở đặc khu Kiên Hải. Đây là một trong những doanh nghiệp nuôi biển hàng đầu, áp dụng công nghệ hiện đại nhất tại Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cũng đã phê duyệt danh mục dự án kêu gọi đầu tư đối với bốn dự án đầu tư nuôi biển công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao trên vùng biển quần đảo Nam Du.

Đưa công nghệ cao vào tái cấu trúc thủy sản

Theo thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh An Giang, đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 4.291 lồng bè nuôi cá biển, sản lượng thu hoạch đạt 4.241 tấn/năm. Riêng năm 2025, Trung tâm khuyến nông tỉnh triển khai 20 điểm nuôi cá biển bằng lồng HDPE, với tổng quy mô 3.712m2. Đồng thời, phối hợp địa phương tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi và vận động ngư dân nuôi cá lồng bè chuyển sang liên kết chuỗi, sử dụng thức ăn công nghiệp thay cá tạp, giảm rác thải, góp phần bảo vệ môi trường.

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang Lê Hữu Toàn cho biết, tỉnh ưu tiên phát triển mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật về vật liệu mới, lồng lưới chịu lực, sử dụng thiết bị máy móc phụ trợ, chiếu sáng trên bè bằng năng lượng mặt trời. Cùng với đó, tỉnh tổ chức tập huấn, hướng dẫn người nuôi phòng, trị bệnh trên đàn cá, các biện pháp xử lý dịch bệnh, khống chế dịch bệnh; các quy định pháp luật về đăng ký, cấp phép nuôi biển; tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ vùng nuôi gắn với quan trắc môi trường nước.

Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, ngoài tái cấu trúc ngành thủy sản theo hướng cắt giảm số lượng tàu cá, sắp xếp lại ngành khai thác phù hợp, bảo đảm sinh kế cho ngư dân gắn với tái tạo nguồn lợi thủy sản, tỉnh An Giang đang thúc đẩy phát triển nghề nuôi biển thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu ngày càng lớn.

Theo Đề án nuôi biển, An Giang đặt mục tiêu đến năm 2030 phát triển 14.000 lồng nuôi biển, trong đó có 6.600 lồng nuôi công nghệ cao. Hiện nay, đã có năm doanh nghiệp được Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận chủ trương thực hiện dự án nuôi biển quy mô lớn tổng diện tích gần 3.000 ha. Trong năm dự án thì có ba dự án của Công ty Nuôi trồng thủy hải sản Phú Quốc, Công ty Australis Việt Nam và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Mavin Nam Du, đầu tư để phát triển nuôi biển theo công nghệ cao.

"Ngoài danh mục dự án đã phê duyệt, tỉnh tiếp tục kêu gọi các doanh nghiệp có năng lực đầu tư vào sản xuất con giống, thức ăn công nghiệp, chế biến và xuất khẩu sản phẩm nuôi biển. Để thực hiện có hiệu quả Đề án nuôi biển, tỉnh khuyến khích nhân rộng mô hình nuôi tôm công nghiệp, phát triển nuôi hải sản ven biển, ven đảo và xa khơi", ông Lê Hữu Toàn cho biết thêm ■

Thực hiện Đề án phát triển nuôi biển theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Kiên Giang (nay là An Giang) đến năm 2030, đặc khu Kiên Hải đã lập quy hoạch đối với 21 vị trí nuôi trồng thủy sản, với tổng diện tích 11.956ha".

Nguyễn Quốc Tuấn

Bí thư đặc khu Kiên Hải

Có thể bạn quan tâm

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.