Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)
Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Để làm rõ một số vấn đề liên quan đến phát triển công nghệ lõi ở Việt Nam, nhất là đối với một ngành quan trọng như ngành điện, Nhân Dân cuối tuần đã cùng thảo luận với các chuyên gia của Hội Kỹ thuật điện và năng lượng (AEEE).

- Điểm khác biệt cốt lõi trong cách người Pháp làm chủ công nghệ lõi cũng như xây dựng đội ngũ nghiên cứu lĩnh vực này là gì?

- Kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và phát triển công nghệ lõi của Pháp nói riêng và châu Âu nói chung, có thể được đúc kết ở ba điểm chính: Sự kết nối chặt chẽ giữa khối nghiên cứu khoa học (trường đại học, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm) và các doanh nghiệp sản xuất; tinh thần khao khát đổi mới, làm chủ và cải tiến những sản phẩm hiện có và cuối cùng là định hướng, phân chia nhiệm vụ (dựa trên thế mạnh của các đơn vị và năng lực nội tại về con người, tài chính, tính cả những rủi ro, mạo hiểm trong nghiên cứu và phát triển những công nghệ mới).

Cụ thể, họ rất ý thức trong việc lan tỏa và định hướng tinh thần nghiên cứu khoa học từ sớm đến với các bạn trẻ. Từ cấp phổ thông, các kỳ thực tập ngắn hạn trong các công ty và trung tâm nghiên cứu sẽ thúc đẩy định hướng ngành nghề. Ở bậc đại học, việc kết hợp vừa học, vừa làm khoảng hai đến ba năm (giống như kỹ sư học việc) giúp sinh viên ứng dụng những kiến thức vào thực tế, nâng cao khả năng thích ứng với môi trường làm việc công nghiệp. Ngoài ra, sinh viên còn có những kỳ thực tập dài hạn bắt buộc từ ba đến sáu tháng.

- Việt Nam cần hành động như thế nào để tránh được tối đa những rủi ro cũng như sai sót có thể mắc phải trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho công nghệ lõi?

- Thứ nhất, cần xây dựng quy hoạch và lộ trình cụ thể những công nghệ lõi cần làm chủ, dựa trên thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên trong nước, con người và xu hướng công nghệ của thế giới. Quy hoạch đúng sẽ tránh sự đầu tư dàn trải, lãng phí, qua đó giữ được lộ trình và kinh phí đủ dài để tạo ra sản phẩm thị trường cần.

Thứ hai, về con người, cần rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, sự phối hợp giữa các cá nhân và tổ chức nhằm tích hợp cực đại kinh nghiệm và thế mạnh, trên tinh thần làm việc mang tính kết nối và chia sẻ. Với các dự án khoa học-kỹ thuật, làm việc nhóm, phối hợp trong và ngoài nước là yếu tố then chốt để tiến xa hơn, trên cơ sở giữ vững điểm mạnh nhưng vẫn bảo mật về công nghệ của riêng mình. Vì vậy, cần xây dựng cơ chế điều phối và quản lý đặc thù phù hợp với những dự án lớn.

Thứ ba, cần có tầm nhìn đủ dài để chấp nhận những đầu tư ban đầu, thậm chí mạo hiểm để làm chủ công nghệ lõi, trong bối cảnh con người hướng tới những sản phẩm đa năng và tích hợp nhiều yếu tố công nghệ. Vì thế, việc lan tỏa văn hóa nghiên cứu khoa học, hay tìm kiếm sự ủng hộ của toàn dân cho những sản phẩm “Made by Viet Nam” là điều quan trọng và cần thiết.

Thứ tư, cần xây dựng cơ chế mở, trung thực, có tính định hướng trong cách quản lý các chương trình, dự án khoa học. Mô hình quản lý đặt nặng yếu tố hành chính và cứng nhắc dễ gây cản trở sự sáng tạo và tính kết nối của các dự án dài hơi, buộc các nhà khoa học phải lựa chọn những giải pháp an toàn ngắn hạn, thay vì có thể đi xa hơn.

Thứ năm, về kết quả nghiên cứu khoa học thực nghiệm, cần đánh giá chủ đạo trên sản phẩm thực tế tạo ra thay vì số lượng các công bố khoa học hay tính lý thuyết của các dự án. Khoa học thực nghiệm và công nghệ lõi cần có sự bảo mật để giữ được thế mạnh và thành quả nghiên cứu phát triển sản phẩm. Vì vậy, để đánh giá kết quả của quá trình phát triển công nghệ lõi cần đi vào yếu tố thực chất, cần hệ sinh thái thiết kế, thí nghiệm, thử nghiệm, cải tiến và sản xuất.

- Đối với một lĩnh vực chuyên sâu như ngành điện, liệu rằng những kinh nghiệm từ nước Pháp có thể gợi mở gì trong việc xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển công nghệ lõi?

- Nói về công nghệ lõi trong ngành điện là nói đến chu trình khép kín từ khi nghiên cứu thử nghiệm đến lúc tạo ra sản phẩm bảo đảm các tiêu chuẩn để đưa vào thị trường và có tính ưu việt hơn sản phẩm hiện có. Một số cơ chế quan trọng nhất, có thể kể đến như: Thành lập Cơ quan Nghiên cứu Quốc gia (ANR) với mục đích là thu hút các quỹ cho nghiên cứu khoa học từ nhiều nguồn khác nhau, đẩy mạnh và điều phối các dự án khoa học của Nhà nước trên cơ sở định hình các lĩnh vực khoa học-kỹ thuật mũi nhọn của từng địa phương, từng vùng, miền trên cả nước.

Cơ chế nguồn vốn đối ứng (theo tỷ lệ 50% từ nguồn vốn của Nhà nước và 50% đến từ doanh nghiệp), hay chính sách ưu đãi giảm thuế đến 30% cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào các dự án R&D... giúp thúc đẩy nhiều tập đoàn lớn (như Airbus, Safran, Thales…) đầu tư đều đặn từ 4-6% doanh thu hằng năm vào R&D.

Chính phủ Pháp cũng thành lập các viện nghiên cứu khoa học-công nghệ chiến lược (IRT) để phối hợp chuyển giao công nghệ giữa nhà nước và doanh nghiệp, dựa trên chỉ số mức độ phát triển công nghệ của sản phẩm (Technology Readiness Level - TRL). Đây là yếu tố quan trọng và then chốt để làm chủ một công nghệ lõi cụ thể, đồng thời cũng là một mô hình đáng học hỏi.

Thí dụ, một sản phẩm hoàn chỉnh bảo đảm đủ các tiêu chuẩn để đưa vào thị trường đạt mức độ TRL 9. Vậy, các trường đại học, phòng thí nghiệm sẽ triển khai nghiên cứu các sản phẩm với chỉ số TRL từ 1-3. Các viện nghiên cứu IRT sẽ phát triển TRL từ 4-6. Các doanh nghiệp sẽ hoàn thiện và đưa vào thị trường với mức TRL từ 7-9. Song song với các giai đoạn nâng cấp TRL cho sản phẩm đều có chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ mà các cơ sở nghiên cứu và doanh nghiệp đều phải tuân thủ và chia sẻ cùng nhau trong những hợp đồng đối tác chặt chẽ và hoàn chỉnh về cả tài chính và phát minh khoa học.

Cũng xin nhắc lại, từ những năm 1939, hệ thống các phòng thí nghiệm trực thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS) trong các trường đại học và các viện nghiên cứu, đã được thành lập với sự đầu tư bài bản về máy móc và thiết bị. Đây là cách tốt nhất để tích hợp tài chính, kinh nghiệm và tạo nền tảng xuyên suốt trong việc phát triển các công nghệ lõi tại Pháp.

- Việt Nam nên lựa chọn mũi nhọn nào để tập trung đầu tư trong tương lai?

- Bên cạnh yếu tố về con người với kinh nghiệm và thế mạnh nghiên cứu khoa học của các cơ sở nghiên cứu, việc lựa chọn công nghệ lõi cần tính tới năng lực sản xuất, chuỗi cung ứng Việt Nam có thể làm chủ, mức độ phát triển của nền công nghiệp xoay quanh công nghệ đó, cũng như tầm nhìn chiến lược dài hạn của Nhà nước và nhu cầu của thị trường.

Vì vậy, chúng ta cần phát triển và làm chủ công nghệ lõi trong các khâu cung cấp đủ nguồn điện, sản xuất thiết bị trọng yếu và điều khiển cân bằng hệ thống cung cầu điện. Các mũi nhọn có thể kể đến là điện hạt nhân, bán dẫn và công nghệ điều khiển hệ thống điện.

Điện hạt nhân được minh chứng là một nguồn điện ổn định, an toàn và phù hợp với bối cảnh, trình độ phát triển của Việt Nam.

Về bán dẫn trong ngành điện, chúng ta cần tính đến việc tạo ra các sản phẩm sử dụng bán dẫn là các thiết bị chuyển đổi điện tử công suất được ứng dụng trong các ngành sản xuất công nghệ cao (như xe điện, tàu cao tốc, hàng không, vũ trụ…).

Cuối cùng, hệ thống điều khiển lưới điện dựa nhiều vào công nghệ số và xử lý dữ liệu - những ngành Việt Nam có sẵn đà phát triển và nhân lực tương đối chất lượng. Hệ thống điện tương lai sẽ tích hợp nhiều nguồn năng lượng mới. Do đó, làm chủ công nghệ điều khiển hệ thống điện tiên tiến không chỉ là yêu cầu bức thiết cho an ninh năng lượng, mà còn là lợi thế cạnh tranh không hề nhỏ cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

- Xin chân thành cảm ơn các chuyên gia!

AEEE được thành lập từ năm 2007, bởi các nghiên cứu sinh, tiến sĩ ngành điện và năng lượng Việt Nam sinh sống và làm việc tại Pháp. Hội luôn bám sát tình hình đất nước và thường xuyên có những đóng góp tích cực, kịp thời cho sự phát triển của ngành điện và năng lượng Việt Nam.

- Các chuyên gia thành viên của AEEE tham gia trả lời:

untitled-dffdfd.png
Tiến sĩ Nguyễn Văn Sang - Kỹ sư phụ trách nghiên cứu công nghệ bán dẫn và hệ thống - Ủy ban Năng lượng Hạt nhân và Năng lượng Tái tạo Pháp (CEA)
untitled-1dsfsdfsdf.png
Tiến sĩ Đỗ Minh Thắng - Trưởng phòng Kỹ thuật Năng lượng Tái tạo - Công ty Meteodyn
untitled-1dasdasd.png
Tiến sĩ Trần Đức Hoàn - Trưởng phòng nghiên cứu, phát triển thử nghiệm và chuyển giao công nghệ bán dẫn - Viện Nghiên cứu Saint - Exupéry

Có thể bạn quan tâm

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ. 

Cần nhiều biện pháp để phát triển nghề cá theo hướng chuyên nghiệp, giảm cường lực khai thác, tăng cường nuôi biển. (Ảnh LÊ VĂN CHƯƠNG)

Gỡ... tư duy ăn xổi

Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải "tuyên chiến" với khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).

Lực lượng chức năng Cảnh sát biển Việt Nam truy đuổi tàu cá vi phạm vùng biển khai thác.

Kiên quyết ngăn chặn vi phạm IUU

Những vi phạm trong khai thác đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Việc xử lý tàu cá vi phạm và các "đầu nậu", vì thế, cần được triển khai hiệu quả hơn.

Ông Vũ Duyên Hải, Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Nỗ lực gỡ "thẻ vàng" của Việt Nam được đánh giá cao

Đến thời điểm này, toàn bộ tàu cá của Việt Nam đã được đăng ký và nhập dữ liệu lên hệ thống Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase). Đây là khẳng định của ông Vũ Duyên Hải (ảnh bên), Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khi trả lời phỏng vấn Nhân Dân cuối tuần.