Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Cùng với đó là những tin tưởng, mong chờ của họ về tương lai gần của nền mỹ thuật Việt Nam.

le-anh-van-abc.jpg

Phó giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, họa sĩ Lê Anh Vân, nguyên Hiệu trưởng Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam:

Giải pháp để thu hẹp khoảng cách

Thời điểm hiện nay, số lượng người Việt Nam trẻ sưu tập tranh ngày một nhiều. Họ không những có điều kiện tốt về tài chính mà còn chịu khó dành thời gian tự tìm đọc sách, nghiên cứu cẩn thận về những tác giả mà họ yêu thích, rồi tìm tới đặt vấn đề sưu tập. Họ có ý thức gây dựng từng bộ tranh theo chủ đề hoặc theo tác giả. Đấy là điều rất đáng quý.

Bên cạnh đó, còn có nhiều người ở các độ tuổi khác nhau cũng vẫn tiếp tục sưu tập tranh. Thực tế này phong phú hơn nếu so sánh với thế hệ đầu tiên của các nhà sưu tập mỹ thuật trong nước, số lượng rất ít ỏi và gần gần tuổi nhau. Số lượng người mua tranh, tượng vì yêu thích, để bài trí trong nhà cũng tăng lên nhiều so trước kia, cho thấy xã hội có xu hướng chú trọng nhu cầu nâng cao nhận thức thẩm mỹ.

Cách mà xã hội ứng xử với mỹ thuật luôn cho thấy sự trân trọng, cho dù chúng ta đang ở thời kỳ bùng nổ của truyền thông thị giác, nhất là khi trí tuệ nhân tạo AI “lên ngôi”. Tôi đã trải qua chuyện vui: một số cá nhân bất chợt bắt gặp hình ảnh tác phẩm của tôi trên internet đã chủ động tìm cách liên hệ tôi để xin quyền sử dụng. Hay việc nhiều tờ báo, tạp chí vẫn mời họa sĩ minh họa, vẽ tranh để làm bìa các số xuất bản đặc biệt là minh chứng cho sự trọng dụng của xã hội dành cho mỹ thuật.

Tuy nhiên, vẫn phải thẳng thắn nhìn nhận: Khoảng cách giữa mỹ thuật của nước ta với thế giới là không nhỏ. Để thu hẹp lại, có rất nhiều việc mà cơ quan chức năng cũng như các nhà trường đào tạo mỹ thuật cần phải chủ động làm nhiều hơn. Chẳng hạn, cần tổ chức thật nghiêm túc, bài bản việc giới thiệu nghệ thuật Việt Nam ra quốc tế, thông qua các cơ quan và tổ chức có tính chất đại diện. Tôi lấy thí dụ: nhân 100 năm Ngày khai giảng Khóa 1- Trường Mỹ thuật Đông Dương do chính người Pháp mở tại thủ đô Hà Nội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam đứng ra tổ chức triển lãm các tác phẩm mỹ thuật của những tác giả từng học tại ngôi trường này thời trước năm 1945 tại Paris, thủ đô của Pháp. Tôi tưởng tượng, đó sẽ là một sự kiện mang ý nghĩa văn hóa và lịch sử rất đặc biệt, sẽ mở ngỏ nhiều cơ hội khác cho mỹ thuật Việt Nam.

Một điều nữa, chúng ta có kho báu hội họa sơn mài, mà Trung Quốc từng cử họa sĩ sang tận Trường Mỹ thuật Hà Nội để học hỏi. Nhưng nay, để giới thiệu hội họa sơn mài Việt Nam ra thế giới, nếu ta không làm bài bản, làm sao thế giới họ hiểu đầy đủ được giá trị? Nhưng để làm được, lại cần phải đào tạo thật bài bản nhân lực trong lĩnh vực mỹ thuật, bên cạnh người sáng tác, còn là đội ngũ nghiên cứu, phê bình lý luận, giám tuyển, người làm truyền thông, tiếp thị nghệ thuật…

Sự năng động đổi mới nội dung giảng dạy và tăng cường hợp tác quốc tế của các cơ sở đào tạo bậc đại học và sau đại học về mỹ thuật là rất quan trọng. Từ gần 30 năm trước, Trường đại học Mỹ thuật Hà Nội (từ năm 2008 đến nay, mang tên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam) đã thường xuyên có các hợp tác quốc tế trong đào tạo, cung cấp thông tin về tình hình mỹ thuật thế giới. Tiếp đó, nhà trường từng mở một số môn học nghệ thuật thị giác đương đại… Tiếc là hướng tiếp cận quốc tế này dần dần không còn sôi nổi nữa.

Kỷ niệm 100 năm ngày khai giảng khóa học đầu tiên của Trường Mỹ thuật Đông Dương là thời cơ lớn để ngôi trường hôm nay nắm lấy, chủ động thay đổi mình để phát triển. Tôi mong là vậy.

oanh-1.jpg
Nghệ sĩ Phi Phi Oanh bên một tác phẩm của chị. Nguồn: Fost Gallery, Singapore

Phi Phi Oanh là nghệ sĩ người Mỹ gốc Việt, hiện được biết đến như một nghệ sĩ thị giác đương đại tên tuổi trong khu vực châu Á. Tác phẩm của chị được giới thiệu, sưu tập bởi nhiều bảo tàng, tổ chức nghệ thuật lớn trong khu vực châu Á.

Nghệ sĩ thị giác Phi Phi Oanh:

Mong chờ sự đổi mới về giáo dục nghệ thuật

Trong hai thập kỷ qua ở Việt Nam, tôi quan sát thấy sự cởi mở trong định nghĩa về nghệ thuật, cùng với sự chuyên nghiệp hóa của các nghệ sĩ. Điều này không thể diễn ra một cách tự nhiên mà phụ thuộc vào sự phát triển của toàn bộ hệ sinh thái chung quanh lĩnh vực sáng tạo, được hỗ trợ bởi các trường đại học, không gian triển lãm, các nhà nghiên cứu lịch sử, phê bình nghệ thuật và thị trường nghệ thuật.

Ngay từ những ngày đầu làm việc tại Việt Nam, tôi luôn cảm nhận được vị trí trung tâm của nghệ thuật trong xã hội. Nghệ thuật được coi trọng, với cảm xúc sâu sắc, và được nhìn nhận một cách có trách nhiệm thông qua các nguồn lực, thời gian, sự chú ý và nỗ lực của mọi người. Ngay cả ngày nay, bên dưới sự phức tạp, đa diện của biểu hiện nghệ thuật, sự chiếm ưu thế chi phối sáng tác của thị trường, vẫn còn nguyên ý thức sâu sắc về xây dựng bản sắc dân tộc và sự phản hồi tới bối cảnh xã hội, nếu cần thiết.

Tôi rất vui mừng về sự phát triển này bởi vì các giá trị và sự thịnh vượng của một xã hội không thể chỉ được đo lường bằng GDP, mà còn thông qua nghệ thuật như một sự tôn vinh năng lực con người và sự thể hiện suy nghĩ, cảm xúc của người dân.

Trên bình diện quốc tế, theo kinh nghiệm của tôi, tôi thấy các tổ chức uy tín kết nối hay không kết nối với nghệ sĩ Việt Nam không phải bởi vì họ là người Việt Nam mà vì cách họ đóng góp vào cuộc hội thoại, trao đổi nghệ thuật trong hiện tại. Như là cá nhân tôi, tôi vô cùng yêu tranh sơn mài, bị cuốn hút đặc biệt khi làm việc với sơn ta, bởi mối tương quan của chất liệu này với nơi chốn, khí hậu, và lịch sử; nó là một trong những chất liệu hấp dẫn và lôi cuốn nhất. Đối với tôi, nó là hiện thân, và có thể đóng góp vào sự phát triển của tư duy địa phương đồng thời cũng có thể cộng hưởng ở nước ngoài thông qua cách chúng ta chia sẻ mối bận tâm chung về sinh thái xã hội. Tôi luôn cảm thấy rằng, một khuôn khổ lý thuyết tinh tế hơn cho hội họa sơn mài sẽ đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nó cũng như cách mà nó được tiếp nhận, đặc biệt là trong nghệ thuật đương đại. Tôi luôn cố gắng tạo ra những tác phẩm tương ứng với khuôn khổ như vậy, nhưng tôi tin rằng điều đó đòi hỏi sự cộng hưởng của cả cộng đồng nghệ thuật, và tất nhiên, đòi hỏi thời gian nữa.

Cho đến nay, khi nói đến "Việt Nam", chúng ta thường nhắc đến Hà Nội và Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh, những siêu đô thị với các trường nghệ thuật uy tín và đời sống văn hóa thịnh vượng. Tôi hy vọng rằng sự thịnh vượng này sẽ tạo ra những làn sóng lan tỏa ra các địa phương nhỏ hơn, và sự thịnh vượng này được theo đuổi bằng quy hoạch đô thị bền vững cùng các chính sách văn hóa phù hợp.

Tôi hiện sống và làm việc tại Đà Nẵng, nơi các con tôi theo học trường phổ thông công lập với chương trình học nghiêm ngặt về ngôn ngữ, toán và khoa học. Tuy nhiên, tôi mong chương trình giáo dục về nghệ thuật được cải thiện để tập trung vào giao tiếp thị giác, tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề. Các giáo viên mỹ thuật sẽ nhận được nhiều hỗ trợ đào tạo và thời gian hơn để hướng dẫn thế hệ trẻ về trí tuệ thị giác. Tôi cũng hy vọng trong tương lai gần, sẽ có thêm nhiều trung tâm giáo dục đại học trong các lĩnh vực sáng tạo để các thành phố nhỏ hơn, như Đà Nẵng, có thể tăng trưởng về nghệ sĩ, nghệ nhân và hệ sinh thái sáng tạo địa phương.

laurent.jpg

Laurent Colin là một người Pháp theo dõi và sưu tập nghệ thuật Việt Nam trong suốt hơn 30 năm qua, kể từ khi ông có khoảng thời gian ngắn làm việc trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, đầu những năm 1990.

Ông Laurent Colin:

Nên ưu tiên hỗ trợ nghiên cứu

Khán giả quan tâm đến nghệ thuật thị giác luôn hạn chế về số lượng, thực tế này không chỉ riêng ở Việt Nam. Điều thú vị là hồ sơ về khán giả nội địa của mỹ thuật Việt Nam đã thay đổi đáng kể.

Trước đây, các nhà sưu tập chủ yếu là người nước ngoài hoặc người Việt Nam xa xứ; nay, có một thế hệ người Việt Nam tích cực mua các tác phẩm mỹ thuật nội địa. Trở thành một “nhà sưu tập” hiện là một loại “địa vị xã hội” ở Việt Nam, một dấu hiệu của sự thành công trong nghề nghiệp. Tuy nhiên, phần nhiều trong số những “nhà sưu tập” này chủ yếu coi nghệ thuật là một “khoản đầu tư”: Họ mua một “chữ ký” và coi một “bức tranh” là một món đồ có tính lịch sử, thay vì thật sự quan tâm đến chất lượng thẩm mỹ nội tại hay tính độc đáo của tác phẩm. Phần lớn số tác phẩm mà họ mua được cho là do những thế hệ sinh viên đầu tiên của Trường Mỹ thuật Đông Dương sáng tác. Về nguyên tắc, đây có thể là tin tốt nhưng trên thực tế, nó lại biểu hiện cho một thị trường nghệ thuật hoàn toàn chưa trưởng thành.

Điều kỳ cục là, 30 năm trước tại Hà Nội, tôi dễ dàng hiểu những nét tinh tế của nghệ thuật Việt Nam hơn khi trò chuyện với các nghệ sĩ (nói được tiếng Pháp) thuộc thế hệ đi trước, hay như với nhà phê bình Thái Bá Vân, những người chứng kiến ​​một thời kỳ nghệ thuật chưa phải là “thị trường”. Hiện giờ, vẫn còn đó những người chứng kiến thuộc thế hệ trẻ với con mắt tinh tường về nghệ thuật. Tuy nhiên, ý kiến ​​của họ hầu như không được quan tâm trước những giá trị mới do thị trường áp đặt.

Chưa hết, đời sống mỹ thuật ở Việt Nam còn bị “ô nhiễm” bởi những chuyên gia “tự xưng”, “nhà nghiên cứu/giám tuyển độc lập” được thúc đẩy bởi lợi ích kinh doanh cá nhân của họ. Đến nỗi, họ không giấu tham vọng viết lại lịch sử nghệ thuật Việt Nam bằng cách giao vai trò không chính danh cho một số người hoặc đã qua đời từ lâu hoặc bản thân những người này cũng không cần cách tiếp thị như vậy.

Trong bối cảnh này, nghệ thuật đương đại dường như vẫn bị phần lớn công chúng trong nước bỏ qua mặc dù một số phòng tranh ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã có những tác phẩm chất lượng. Bên cạnh đó, nếu nhìn vào những gì được trưng bày tại các sự kiện triển lãm, hội chợ quốc tế, ta thấy phần lớn là tên tuổi nghệ sĩ Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài, những người đôi khi thuận theo các quy tắc toàn cầu hóa với một chút khác biệt.

Các tổ chức nước ngoài chỉ quan tâm đến những gì họ biết về mỹ thuật Việt Nam, tức là rất ít. Các nhà đấu giá cũng như bảo tàng bên ngoài Việt Nam, đặc biệt là ở Pháp, tập trung vào một số tên tuổi của những người từng là sinh viên Trường Mỹ thuật Đông Dương, mà chủ yếu là những người đã tạo dựng sự nghiệp của họ tại Pháp. Những gì đã xảy ra trong đời sống mỹ thuật sau năm 1954 ở Việt Nam thật sự không được để tâm nhiều.

Nếu phải đưa ra một vài điều ước cho mỹ thuật Việt Nam trong tương lai gần, tôi sẽ nói:

Nghiên cứu nên được ưu tiên hỗ trợ để thu thập và phân tích chính xác, khách quan những thông tin liên quan đến lịch sử mỹ thuật Việt Nam, giống như ở bất kỳ quốc gia nào. Điều này đồng nghĩa với việc đào tạo và hỗ trợ tài chính cho các nhà nghiên cứu độc lập, ở cả Việt Nam và nước ngoài. Nghiên cứu phải được thực hiện tốt nhất bởi các nhà nghiên cứu (trong và ngoài Việt Nam) về lịch sử nghệ thuật, có nền tảng học thuật, có phương pháp luận và tốt nhất là nói tiếng Việt, nếu nhà nghiên cứu đến từ nước ngoài.

Giáo dục đến sau khi nghiên cứu đã thiết lập được bối cảnh và tham chiếu phù hợp. Giáo dục rõ ràng không chỉ giới hạn ở hệ thống giáo dục mà còn bao gồm các nhà đấu giá, tạp chí nghệ thuật, triển lãm, các phòng tranh. Nghệ thuật là thứ bạn cần học dần dần; con mắt là một loại "cơ bắp" mà bạn cần rèn luyện qua nhiều năm. Tôi chắc chắn rằng một ngày nào đó "những nhà sưu tập giàu có" của chúng ta sẽ thức tỉnh khi chất lượng, tính độc đáo, sự hiếm có, giá trị lịch sử... của khoản đầu tư của họ sẽ bị đặt câu hỏi và "bong bóng" tranh Đông Dương sẽ vỡ tung, để lại cho họ hàng tá "kiệt tác" trong những khung vàng với giá quá cao. Các nhà đấu giá ở nước ngoài và tại Việt Nam hãy dần dần hoạt động chuyên nghiệp, minh bạch và có đạo đức.

Tôi cũng muốn nói thêm rằng, đã đến lúc có nhiều nhà sưu tập trẻ quan tâm và ủng hộ nghệ thuật đương đại và các phòng tranh liên quan, đồng thời hạn chế tối đa việc nghe lời các giám tuyển.

hgk3205-salecat-61.jpg
Nguyễn Phan Chánh, Người bán gạo, mực tàu và bột mầu trên lụa, 64,5x50,5cm, 1932. Nguồn: Christie's

Có thể bạn quan tâm

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ. 

Cần nhiều biện pháp để phát triển nghề cá theo hướng chuyên nghiệp, giảm cường lực khai thác, tăng cường nuôi biển. (Ảnh LÊ VĂN CHƯƠNG)

Gỡ... tư duy ăn xổi

Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải "tuyên chiến" với khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).

Lực lượng chức năng Cảnh sát biển Việt Nam truy đuổi tàu cá vi phạm vùng biển khai thác.

Kiên quyết ngăn chặn vi phạm IUU

Những vi phạm trong khai thác đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Việc xử lý tàu cá vi phạm và các "đầu nậu", vì thế, cần được triển khai hiệu quả hơn.

Ông Vũ Duyên Hải, Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Nỗ lực gỡ "thẻ vàng" của Việt Nam được đánh giá cao

Đến thời điểm này, toàn bộ tàu cá của Việt Nam đã được đăng ký và nhập dữ liệu lên hệ thống Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase). Đây là khẳng định của ông Vũ Duyên Hải (ảnh bên), Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khi trả lời phỏng vấn Nhân Dân cuối tuần.