Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.
GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Xin ông cho biết, vì sao công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục lại được coi là ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay?

- Giáo dục Việt Nam đang nỗ lực mạnh mẽ và quyết liệt trong việc thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng và chuyển đổi số toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục, coi đó là yếu tố then chốt, không thể thiếu cho mọi hoạt động và cho tăng trưởng mang tính bền vững lâu dài. Đặc biệt, trong bối cảnh triển khai các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 cụm từ "chất lượng" được nhắc đến 16 lần, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 281/NQ-CP của Chính phủ, Kế hoạch triển khai số 2811/KH-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai Nghị quyết số 281 của Chính phủ, bảo đảm chất lượng cho mọi hoạt động, nhiệm vụ của Nghị quyết 71 đã định vị rõ đây là động lực cho hành động và đột phá ở mọi cấp học, đóng vai trò nền tảng và tiên quyết để thực thi tự chủ đại học thực chất, đi đôi với yêu cầu giải trình và minh bạch hóa. Từ đó, công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng được xem là 1 trong 6 nội dung lớn, trụ cột của hệ thống giáo dục và trong hệ thống các Luật về giáo dục, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, giúp bảo đảm minh bạch, trách nhiệm giải trình và cải tiến liên tục. Bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng không chỉ đơn thuần là hoạt động giám sát, mà còn là công cụ chiến lược để các trường xây dựng hệ thống tự bảo đảm chất lượng bên trong (IQA), tự đánh giá, đối sánh, tự điều chỉnh và đổi mới liên tục. Đặc biệt, trong tiến trình hội nhập giáo dục sâu rộng với quốc tế thì bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng sẽ tạo thuận lợi thúc đẩy hợp tác, liên kết đào tạo, công nhận văn bằng, chương trình đào tạo lẫn nhau.

- Với vai trò Cục trưởng, ông đánh giá thế nào về công tác bảo đảm chất lượng bên trong của các cơ sở giáo dục đại học, thực trạng đội ngũ và nguồn lực?

- Tính đến 31/8/2025, tỷ lệ cơ sở giáo dục đại học đã hoàn thành tự đánh giá (chu kỳ 1) đạt 94,2% (228/242 cơ sở giáo dục đại học không thuộc khối an ninh quốc phòng), và 100% (23/23 trường cao đẳng sư phạm) ở khối cao đẳng sư phạm. Về mặt tổ chức, qua kết quả khảo sát, có 96,3% (170/177) cơ sở giáo dục đại học đã thành lập bộ phận chuyên trách về bảo đảm chất lượng bên trong từ cấp khoa, phòng đến cấp cơ sở giáo dục.

Tuy nhiên, việc triển khai IQA ở một số cơ sở giáo dục đại học vẫn còn mang tính hình thức, chưa hiệu quả, thiếu sự kết nối chặt chẽ với chiến lược phát triển chung và chiến lược bảo đảm chất lượng theo từng giai đoạn của nhà trường; chưa vận hành đầy đủ và đúng theo chu trình lập kế hoạch-triển khai-kiểm tra, giám sát-hành động cải tiến chất lượng (thường được gọi thuật ngữ chung trong kiểm định là PDCA- Plan-Do-Check-Act). Khả năng cải tiến liên tục hiện nay của hầu hết các cơ sở giáo dục đại học vẫn còn yếu, thể hiện qua điểm số thấp nhất ở Tiêu chí 9.6 (về cải tiến quy trình - theo bộ tiêu chuẩn được quy định trong Công văn 1668/QLCL-KĐCLGD, ngày 31/12/2019) chỉ đạt 3,64/5, các cơ sở giáo dục đại học thường dồn sức hoàn thiện các tiêu chuẩn, tiêu chí vào năm cuối chu kỳ để chuẩn bị cho chu kỳ kiểm định mới, điều này chưa thật sự đúng và thực chất về bảo đảm chất lượng là cải tiến liên tục, không có điểm dừng. Văn hóa chất lượng đang dần hình thành nhưng chưa thật sự lan tỏa bền vững, ở đâu người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học triển khai quyết liệt và am hiểu sâu về bảo đảm chất lượng nơi đó có kết quả kiểm định chất lượng cơ sở và chương trình tốt hơn và vươn lên nhanh hơn.

Về nhân sự bảo đảm chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học: Khoảng 15,25% ý kiến khảo sát phản ánh tình trạng vẫn còn thiếu cán bộ chuyên trách về bảo đảm chất lượng để đảm bảo IQA vận hành tốt. Phần lớn nhiệm vụ bảo đảm chất lượng vẫn do giảng viên kiêm nhiệm đảm trách. Đội ngũ còn mỏng, chưa đồng đều về năng lực chuyên môn và thiếu kinh nghiệm quốc tế, chưa được tiếp cận các lớp đào tạo và tập huấn thường xuyên về bảo đảm chất lượng. Đáng chú ý, dù đã có cán bộ tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ, nhưng số người được cấp thẻ kiểm định viên còn rất ít hoặc chưa đạt qua các đợt sát hạch.

Nguồn lực tài chính dành cho bảo đảm chất lượng còn thiếu và không ổn định, nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa phân định rõ nguồn lực tài chính cho công tác bảo đảm chất lượng hằng năm nên còn khá lúng túng cho vấn đề đầu tư cho các hoạt động này. Hệ thống cơ sở dữ liệu và minh chứng còn phân tán, lưu trữ thủ công, gây khó khăn trong việc quản lý, giám sát và khai thác dữ liệu để phục vụ cải tiến.

dhbkhn-8200.jpg
Đại học Bách khoa Hà Nội tổ chức tập huấn tự đánh giá các chương trình đào tạo theo bộ tiêu chuẩn AUN-QA phiên bản 4.0.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg, ông có thể cho biết những vấn đề đã được ghi nhận về nội dung này?

- Sau ba năm triển khai Quyết định số 78/QĐ-TTg (giai đoạn 2022-2025), chúng ta đã có kết quả sơ kết rất lạc quan về sự phát triển của hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm, với nhiều mục tiêu đã hoàn thành và thậm chí là vượt xa kỳ vọng. Có thể nói, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đang chuyển mình rất rõ rệt.

Về số lượng kiểm định chương trình: Mục tiêu ban đầu của Quyết định số 78 chỉ là 35% chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định, nhưng đến tháng 8/2025, chúng ta đã có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định. Con số này tương đương với tỷ lệ 52,1% so với tổng số lượt ngành đại học, tức là chúng ta đã vượt mức mục tiêu trung hạn một cách ngoạn mục. Điều đáng mừng hơn nữa là về hội nhập quốc tế. Tỷ lệ chương trình đào tạo đạt chuẩn quốc tế đã chiếm tới 26,39%, vượt xa chỉ tiêu 10% đề ra. Điều này chứng tỏ chất lượng đào tạo của các trường đang được nâng cao, đủ sức cạnh tranh và tiệm cận với các chuẩn mực khu vực và quốc tế.

Hệ thống bảo đảm chất lượng nội bộ IQA đã được thiết lập. Qua kết quả khảo sát từ 177 cơ sở giáo dục đại học cho thấy có tới 96,3% cơ sở giáo dục đại học đã thành lập đơn vị hoặc bộ phận chuyên trách về bảo đảm chất lượng. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống quản trị đại học hiện đại. Hệ thống IQA tại các trường hiện được đánh giá là khá hoàn thiện (64,97%) hoặc hoàn thiện (10,17%). Các hoạt động tự đánh giá chu kỳ 1 cũng đạt độ phủ rất cao, gần 94,2% cơ sở giáo dục đại học đã thực hiện.

- Vậy đâu là những thách thức cần khắc phục?

- Mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng vẫn đối mặt với một số thách thức mang tính hệ thống:

Vận hành hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong (IQA) thiếu thực chất; khả năng cải tiến liên tục còn yếu. Hoạt động kiểm định chương trình đào tạo làm bộc lộ điểm yếu lớn, nhất là thiếu sự tương thích giữa chuẩn đầu ra với phương pháp dạy học và đánh giá.

Đội ngũ nhân sự bảo đảm chất lượng còn mỏng, chủ yếu kiêm nhiệm. Đội ngũ kiểm định viên hiện nay thiếu về số lượng và chưa đồng đều về năng lực, đặc biệt là khả năng tư vấn cải tiến, phân tích dữ liệu và đánh giá năng lực đầu ra.

Năng lực hội nhập quốc tế còn hạn chế: Việt Nam vẫn thiếu cơ chế công nhận lẫn nhau về kết quả kiểm định với các tổ chức quốc tế. Sự tham gia của các tổ chức kiểm định trong nước vào mạng lưới quốc tế còn hạn chế, chủ yếu dừng ở mức tham gia/quan sát viên.

Hệ thống dữ liệu còn phân tán, lưu trữ thủ công, chưa tạo được nền tảng để minh bạch hóa thông tin và tăng cường trách nhiệm giải trình.

- Trên những ghi nhận, đánh giá như vậy, để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động bảo đảm chất lượng giáo dục đại học, sẽ có những giải pháp nào được đề xuất, triển khai, thưa ông?

- Trong giai đoạn 2026-2030, trọng tâm là chuyển hóa kiểm định từ công cụ đánh giá sang động lực phát triển. Chúng tôi tập trung vào 5 định hướng lớn:

Rà soát, điều chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về bảo đảm và kiểm định chất lượng (sau khi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học sửa đổi được thông qua). Xây dựng cơ chế phân loại các cơ sở giáo dục đại học theo mức độ phát triển IQA và kết quả kiểm định.

Xây dựng hệ sinh thái dữ liệu bảo đảm chất lượng, minh bạch: Thành lập Trung tâm phân tích dữ liệu bảo đảm chất lượng quốc gia, kết nối với các cơ sở dữ liệu ngành (HEMIS, SAHEP). Ứng dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn trong vận hành hệ thống bảo đảm chất lượng nội bộ.

Nâng cao năng lực của tổ chức kiểm định: Yêu cầu các tổ chức kiểm định tái cấu trúc tổ chức theo hướng chuyên nghiệp. Mục tiêu là trên 50% tổ chức kiểm định trong nước đạt ít nhất một thỏa thuận công nhận kết quả kiểm định lẫn nhau quốc tế (MRA) đến năm 2030.

Gắn bảo đảm chất lượng với tự chủ và quản trị: Lồng ghép yêu cầu bảo đảm chất lượng như điều kiện gián tiếp trong mở ngành, tuyển sinh, phân bổ kinh phí, phân tầng, xếp hạng và giao quyền tự chủ. Gắn trách nhiệm bảo đảm chất lượng với đánh giá hiệu quả đơn vị và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu.

Tăng cường hội nhập quốc tế: Khuyến khích các trường tham gia kiểm định quốc tế (AUN-BĐCL, ABET, FIBAA...) và đề xuất thí điểm các mô hình công nhận bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài cho một số ngành đặc thù.

- Có ý kiến cho rằng hoạt động kiểm định tạo áp lực cho các trường?

- Đúng là trong quá trình triển khai kiểm định chất lượng, đã tạo ra những áp lực nhất định cho các trường, nhưng chúng tôi nhìn nhận đó là áp lực cần thiết để hệ thống giáo dục đại học chuyển mình và phát triển bền vững.

Mục tiêu cốt lõi của Quyết định số 78 không phải là tạo ra thủ tục, mà là để thúc đẩy sự phát triển thực chất của từng cơ sở đào tạo. Hoạt động phát triển IQA phải được xem là công cụ phát triển nội lực, cải tiến chất lượng gắn với đầu tư nguồn lực.

Tóm lại, mục tiêu cuối cùng của chúng tôi là hướng công tác kiểm định ngày càng chuyên nghiệp và thực chất, giúp các nhà trường hiểu rõ nội lực của mình, cải tiến chất lượng để khẳng định thương hiệu và tạo nền tảng cho phát triển bền vững. Áp lực kiểm định, nếu được quản lý tốt, sẽ trở thành động lực mạnh mẽ để hệ thống giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục tiến lên.

- Xin trân trọng cảm ơn ông ■

Chúng ta đã có 8 Trung tâm Kiểm định Chất lượng Giáo dục trong nước được cấp phép hoạt động và 11 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Về hội nhập quốc tế của các tổ chức kiểm định, bước đầu chúng ta cũng đạt được chỉ tiêu đặt ra. Đã có ít nhất 60% tổ chức kiểm định tham gia mạng lưới QA quốc tế hoặc thiết lập hợp tác (như với INQAAHE, APQN, ASEAN-QA), vượt mức yêu cầu 50%.

Có thể bạn quan tâm

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ. 

Cần nhiều biện pháp để phát triển nghề cá theo hướng chuyên nghiệp, giảm cường lực khai thác, tăng cường nuôi biển. (Ảnh LÊ VĂN CHƯƠNG)

Gỡ... tư duy ăn xổi

Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải "tuyên chiến" với khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).

Lực lượng chức năng Cảnh sát biển Việt Nam truy đuổi tàu cá vi phạm vùng biển khai thác.

Kiên quyết ngăn chặn vi phạm IUU

Những vi phạm trong khai thác đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Việc xử lý tàu cá vi phạm và các "đầu nậu", vì thế, cần được triển khai hiệu quả hơn.

Ông Vũ Duyên Hải, Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Nỗ lực gỡ "thẻ vàng" của Việt Nam được đánh giá cao

Đến thời điểm này, toàn bộ tàu cá của Việt Nam đã được đăng ký và nhập dữ liệu lên hệ thống Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase). Đây là khẳng định của ông Vũ Duyên Hải (ảnh bên), Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khi trả lời phỏng vấn Nhân Dân cuối tuần.