Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt
Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Khung thể chế cho công nghệ lõi ngành điện

Với kim chỉ nam là Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ngày 27/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo. Một trong các định hướng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chính là: Tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực công nghệ có tiềm năng tạo đột phá, công nghệ chiến lược trên cơ sở bám sát xu thế công nghệ toàn cầu, năng lực nội tại và lợi thế cạnh tranh quốc gia. Theo lộ trình được Bộ Khoa học và Công nghệ công bố, năm 2025, Việt Nam sẽ làm chủ ba sản phẩm công nghệ chiến lược. Đến năm 2027, mục tiêu mở rộng lên ít nhất 20 sản phẩm và thêm 25 sản phẩm vào năm 2035. Xa hơn, Việt Nam tiến tới phát triển các ngành công nghệ chiến lược đóng góp từ 15-20% GDP.

Công nghệ chiến lược được xem như "chiếc ô" bao trùm và là trọng tâm để Nhà nước tập trung nguồn lực, xây dựng chính sách và triển khai các chương trình phát triển lâu dài. Quá trình này đi từ làm chủ sản phẩm, đến làm chủ thiết kế, và tiến tới làm chủ công nghệ lõi. Trong giai đoạn hiện nay, ứng dụng sáng tạo công nghệ lõi (như lưới điện thông minh, công nghệ lưu trữ năng lượng, điện hạt nhân hay hydro xanh…) vào giải các bài toán trong nước cần được chú trọng và ưu tiên.

Năng lượng điện là hạ tầng nền tảng của mọi hoạt động kinh tế-xã hội, do đó, hệ thống công nghệ chiến lược của ngành điện giữ vị trí vô cùng quan trọng. Việc bổ sung ồ ạt các nguồn năng lượng tái tạo sẽ tạo nên thách thức vận hành rất lớn cho hệ thống điện truyền thống. Bởi vậy, chúng ta không thể chỉ mải mê tìm kiếm các nguồn cung mới, mà quên đi việc sử dụng năng lượng một cách thông minh hơn. Đây chính là lúc các công nghệ lõi phát huy giá trị.

Với thế hệ công nghệ mới, tiêu chuẩn an toàn hạt nhân được nâng lên rất cao. Điện hạt nhân có thể trở thành một trong những nguồn cung điện quan trọng trong dài hạn. Các giải pháp vận hành lưới điện thông minh (smart grid) giúp điều phối và tự động hóa lưới điện. Hệ thống lưu trữ năng lượng (BESS) giúp tích trữ điện năng và giải phóng khi cần. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và Dữ liệu lớn (Big Data) cũng góp phần dự báo nhu cầu và tối ưu hóa vận hành lưới điện.

y.jpg
Việt Nam chưa có khung pháp lý rõ ràng với công nghệ lưu trữ dành cho năng lượng tái tạo. (Ảnh THẾ ĐẠI)

Những rào cản thực tế

Hiện tại, Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận và ứng dụng nhiều lớp công nghệ mới. Tuy nhiên, phần lớn giải pháp, thiết bị, phần mềm nền tảng vẫn dựa trên công nghệ do các tập đoàn nước ngoài cung cấp. "Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển công nghệ chiến lược, chúng ta phải giải quyết đồng bộ các rào cản về cơ chế, hạ tầng, công nghệ và con người", Tiến sĩ Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ, Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam, nhấn mạnh.

Thí dụ, với công nghệ lưu trữ năng lượng vốn được coi là "chìa khóa" của năng lượng tái tạo, Việt Nam chưa có khung pháp lý rõ ràng. Liệu chúng ta nên coi đây là một nguồn phát điện độc lập hay chỉ là hệ thống chuyển hóa, lưu trữ và hoàn trả năng lượng? Bên cạnh đó, yêu cầu thực tiễn cũng đòi hỏi cần thiết lập cơ chế giá mua-bán rõ ràng và hiệu quả.

Tầm nhìn dài hạn của Việt Nam đến năm 2050 là đạt phát thải ròng bằng 0, nâng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu điện lên 74–75%, phát triển điện hạt nhân với tổng công suất 14 GW và hoàn thiện hạ tầng hydro đạt quy mô từ 10 đến 20 triệu tấn mỗi năm. Những con số này cho thấy, tham vọng rất lớn, đòi hỏi phải tháo gỡ hàng loạt vướng mắc trong cơ chế, chính sách và công nghệ".

Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn
Ủy viên Thường trực Ban Chấp hành Hiệp hội Năng lượng Việt Nam,
phát biểu tại Diễn đàn Công nghệ Năng lượng trong kỷ nguyên mới.

Hơn thế, Việt Nam hiện chỉ dành khoảng 0,4% GDP cho nghiên cứu và phát triển (R&D) năng lượng, con số quá nhỏ bé so mục tiêu 2% vào năm 2030, chứ chưa dám nói đến so sánh trong khu vực. Số lượng tổ chức R&D trong ngành năng lượng cũng còn rất hạn chế, chủ yếu là một số viện nghiên cứu thuộc Bộ Công thương và các trường đại học về khoa học kỹ thuật. Các trung tâm R&D về tua-bin gió, hệ thống lưu trữ, tấm pin mặt trời, hydro xanh vẫn còn thiếu hụt cả về năng lực lẫn quy mô.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy: Tốc độ tăng trưởng của ngành điện phải ở mức gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng GDP của một quốc gia. Khi chúng ta đặt mục tiêu phấn đấu tăng trưởng hai con số, tốc độ tăng trưởng của ngành điện phải cao hơn nhiều lần mới đáp ứng yêu cầu. Lúc này, áp lực đích thực sẽ là chuyện bảo đảm chất lượng vận hành, độ tin cậy và tính bền vững. Điều đó đòi hỏi hệ thống quản lý và vận hành điện phải thông minh hơn, linh hoạt hơn, và quan trọng là phải dựa trên những công nghệ lõi do các kỹ sư Việt Nam làm chủ ở các khâu then chốt.

Chú trọng thúc đẩy hệ sinh thái "ba nhà"

Tại Diễn đàn "Tương lai khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia", Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh nhấn mạnh: Nhằm giải bài toán đặt ra trong thực tế, Nhà nước sẽ giao các doanh nghiệp lớn, không phân biệt Nhà nước hay tư nhân, phát triển các sản phẩm chiến lược, công nghiệp chiến lược và công nghệ chiến lược.

Để từng bước nghiên cứu, phát triển và làm chủ các công nghệ chiến lược, đội ngũ chuyên gia đều thống nhất rằng, "chìa khóa" là cơ chế thúc đẩy hệ sinh thái hợp tác "ba bên": Nhà nước giữ vai trò kiến tạo thông qua chính sách, định hướng, đầu tư cho hạ tầng nghiên cứu và đặt hàng công; viện nghiên cứu và trường đại học tạo ra tri thức mới, đào tạo nhân lực và phát triển công nghệ nền tảng; doanh nghiệp đóng vai trò đầu kéo thị trường, sở hữu nguồn lực tài chính và tổ chức sản xuất.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Quân, để xây dựng chính sách hiệu quả, Việt Nam cần kết hợp hài hòa giữa việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế và phát huy nội lực trong nước. Chúng ta nên chủ động tiếp cận các cơ quan quản lý năng lượng và các nhà khoa học hàng đầu tại những quốc gia phát triển để nhận tư vấn từ "kiến trúc sư trưởng" của các dự án năng lượng lớn. Trong nước, quá trình xây dựng cơ chế cần có sự lắng nghe đầy đủ ý kiến của nhà khoa học, chuyên gia và doanh nghiệp. Bởi, việc xác định "đề bài" cho các sản phẩm công nghệ chiến lược đã và đang trở thành nhiệm vụ then chốt, nhằm bảo đảm tính khả thi, tầm nhìn để tạo đột phá, nhưng vẫn phải bám sát điều kiện thực tế của lưới điện Việt Nam.

Với tầm nhìn dài hạn, Việt Nam cần đồng thời triển khai nhiều giải pháp quan trọng.

Thứ nhất, cần ưu tiên nâng cấp lưới điện, khuyến khích phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn và cải thiện năng lực dự báo năng lượng tái tạo. Thứ hai, thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ và chuỗi cung ứng trong nước, khuyến khích sự phối hợp giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Cuối cùng, chúng ta cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với chương trình đào tạo gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành.

Từ Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, tới Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, tất cả đã góp phần tạo nên sân chơi mới, nơi các doanh nghiệp tư nhân, trường đại học, cũng như các viện nghiên cứu không chỉ tham gia, mà còn dẫn dắt cuộc đua làm chủ công nghệ lõi ngành điện ■

Muốn tạo nên sự kết hợp bền vững giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp, cần đến sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức khác trong việc tạo các nguồn lực tài chính phù hợp, cũng như bảo đảm sự đồng hành và chia sẻ hài hòa giữa ngân sách nhà nước và các nguồn vốn đối ứng của doanh nghiệp cho các dự án R&D. Có thể tham khảo thí dụ từ dự án đẩy mạnh năng lượng mặt trời vào lưới điện (INES 2S) của Pháp với 50% kinh phí từ Cơ quan Năng lượng Hạt nhân và Năng lượng Tái tạo Pháp (CEA) và 50% đến từ các đối tác công nghiệp là các công ty khác nhau…

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung.