Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)
Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Khó khăn ngay từ nhận thức

Chia sẻ về một số khó khăn trong công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục, TS Trần Đình Lý - Phó Hiệu trưởng Trường đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: không phải đơn vị nào cũng có cùng nhận thức và năng lực triển khai. Một số giảng viên coi tự đánh giá là thủ tục hành chính, chưa gắn với hoạt động chuyên môn để cải tiến chất lượng. Khối lượng minh chứng, số liệu yêu cầu cập nhật liên tục đòi hỏi hệ thống quản lý dữ liệu hiện đại, trong khi nguồn lực nhân sự, tài chính vẫn còn hạn chế.

Tại Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, TS Nguyễn Huy Phúc - Trưởng phòng Khảo thí và đảm bảo chất lượng chia sẻ, áp lực về khối lượng công việc, yêu cầu độ chính xác trong xử lý minh chứng, cùng với triển khai khuyến nghị sau tự đánh giá là một khó khăn. Thêm vào đó, yêu cầu ngày càng cao của các bộ tiêu chuẩn trong và ngoài nước buộc trường phải đầu tư dài hạn cho nhân lực, ngoại ngữ, cơ sở vật chất và hệ thống quản trị.

Tiếp cận từ phân tích hệ thống, PGS, TS Đặng Ngọc Hùng - Phó Giám đốc Trung tâm đảm bảo chất lượng, Trường đại học Công nghiệp Hà Nội bày tỏ, có hai vấn đề nổi bật, mang tính nền tảng là hệ thống thông tin chưa đồng bộ và văn hóa chất lượng chưa bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục.

"Việc hệ thống thông tin chưa đồng bộ khiến cho hoạt động thu thập, lưu trữ và khai thác minh chứng gặp nhiều khó khăn. Dữ liệu về người học, giảng viên, chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học và hoạt động hỗ trợ chưa được kết nối thống nhất, còn phân tán ở nhiều đầu mối quản lý khác nhau. Điều này dẫn đến tình trạng trùng lặp, thiếu nhất quán và mất nhiều thời gian trong quá trình tổng hợp báo cáo tự đánh giá", thầy Hùng phân tích.

Trong khi đó, TS Trần Ái Cầm - Hiệu trưởng Trường đại học Nguyễn Tất Thành nhận xét, khó khăn nằm ở những khác biệt giữa tư duy dài hạn và yêu cầu ngắn hạn. Một bộ phận quan tâm đến nguyên lý, quy trình, đối sánh và phát triển bền vững chất lượng, trong khi nhóm khác chỉ tập trung vào kết quả trước mắt.

Để tự đánh giá không còn là áp lực

Để công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục trở thành động lực thay vì là "áp lực đến hẹn lại lên", cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, với trọng tâm là phát triển văn hóa chất lượng và hoàn thiện hệ thống dữ liệu bảo đảm chất lượng.

TS Trần Đình Lý khẳng định, cần xây dựng văn hóa chất lượng, nơi mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên đều nhận thức rằng chất lượng không đến từ bên ngoài, mà được hình thành từ tinh thần trách nhiệm và sự cải tiến bên trong. Khi văn hóa chất lượng trở thành "hơi thở" của nhà trường, công tác tự đánh giá sẽ là một quá trình tự soi, tự sửa và tự trưởng thành, thay vì là áp lực như hiện nay.

Còn theo TS Nguyễn Huy Phúc, văn hóa chất lượng phải được lan tỏa tới từng cá nhân, đơn vị, coi "tự đánh giá – tự cải tiến" là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, không chỉ là công việc theo chu kỳ. Việc nâng cao nhận thức về tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục cho cán bộ, giảng viên, nhân viên trong trường có thể thông qua các hoạt động truyền thông, tập huấn, chia sẻ thực hành lan tỏa văn hóa chất lượng. Phát triển đội ngũ chuyên trách về bảo đảm chất lượng có năng lực chuyên môn, hiểu biết sâu về tiêu chuẩn kiểm định trong nước và quốc tế cũng cần đặc biệt chú trọng.

PGS, TS Đặng Ngọc Hùng cho rằng, hoạt động tự đánh giá và bảo đảm chất lượng cần được đưa vào kế hoạch thường niên của từng đơn vị, gắn chặt với hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ người học. Đồng thời, cần bồi dưỡng năng lực về bảo đảm chất lượng cho cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên, từ đó hình thành đội ngũ chuyên gia có hiểu biết sâu, có khả năng hướng dẫn đồng nghiệp. Hơn nữa, phải gắn kết quả bảo đảm chất lượng với cơ chế đánh giá, khen thưởng và thi đua, tạo động lực để các đơn vị và cá nhân chủ động tham gia, chia sẻ sáng kiến cải tiến. Bên cạnh đó, nên thúc đẩy lãnh đạo nêu gương và cam kết chất lượng, coi bảo đảm chất lượng là giá trị cốt lõi trong quản trị đại học, từ đó lan tỏa tinh thần trách nhiệm và cải tiến liên tục trong toàn hệ thống.

Đồng thời, cần đầu tư hoàn thiện hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu bảo đảm chất lượng. "Việc xây dựng hệ thống minh chứng, dữ liệu và báo cáo tự đánh giá theo hướng chuẩn hóa, số hóa và tích hợp trong hệ thống quản lý chung sẽ giúp giảm áp lực thu thập và tổng hợp cho các đơn vị khi chuẩn bị kiểm định chất lượng giáo dục", TS Nguyễn Huy Phúc chia sẻ.

TS Trần Đình Lý nhấn mạnh, phải ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số trong bảo đảm chất lượng, xây dựng hệ thống quản trị dữ liệu tập trung, giúp việc thu thập, phân tích và cập nhật minh chứng nhanh chóng, chính xác, minh bạch.

Đồng quan điểm, PGS, TS Đặng Ngọc Hùng nhấn mạnh thêm, cần thiết phải đầu tư hạ tầng công nghệ số và đội ngũ nhân sự phụ trách dữ liệu, kết hợp đào tạo kỹ năng sử dụng hệ thống cho cán bộ phụ trách bảo đảm chất lượng ở các cấp. Để bảo đảm tính nhất quán và so sánh được giữa các kỳ đánh giá, cấp thiết phải chuẩn hóa quy trình và biểu mẫu báo cáo dữ liệu, thống nhất cách thức thu thập, mã hóa và cập nhật. Hệ thống này cũng cần phân quyền truy cập rõ ràng, quy định trách nhiệm từng đơn vị trong cập nhật dữ liệu, nhằm duy trì tính đầy đủ, tin cậy của thông tin.

Cuối cùng, theo TS Trần Ái Cầm, chúng ta phải xác lập tầm nhìn và đích đến về chất lượng, từ đó lựa chọn hoặc xây dựng bộ tiêu chí phù hợp với chiến lược của nhà trường. Khi chất lượng đã được tích hợp vào quản trị, đào tạo, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng, thì tự đánh giá đơn thuần là bước tổng hợp, phân tích và kể câu chuyện về chất lượng.

Bên cạnh đó, để tăng cường hội nhập quốc tế, cần đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục và mạng lưới bảo đảm chất lượng ở trong và ngoài nước. Từ đó, giúp cơ sở giáo dục đại học học hỏi kinh nghiệm tốt nhất, cập nhật xu hướng mới và từng bước nâng cao uy tín quốc tế ■

Có thể bạn quan tâm

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ. 

Cần nhiều biện pháp để phát triển nghề cá theo hướng chuyên nghiệp, giảm cường lực khai thác, tăng cường nuôi biển. (Ảnh LÊ VĂN CHƯƠNG)

Gỡ... tư duy ăn xổi

Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải "tuyên chiến" với khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).

Lực lượng chức năng Cảnh sát biển Việt Nam truy đuổi tàu cá vi phạm vùng biển khai thác.

Kiên quyết ngăn chặn vi phạm IUU

Những vi phạm trong khai thác đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Việc xử lý tàu cá vi phạm và các "đầu nậu", vì thế, cần được triển khai hiệu quả hơn.

Ông Vũ Duyên Hải, Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Nỗ lực gỡ "thẻ vàng" của Việt Nam được đánh giá cao

Đến thời điểm này, toàn bộ tàu cá của Việt Nam đã được đăng ký và nhập dữ liệu lên hệ thống Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase). Đây là khẳng định của ông Vũ Duyên Hải (ảnh bên), Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khi trả lời phỏng vấn Nhân Dân cuối tuần.