Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

PGS, TS Lê Văn Hảo.
PGS, TS Lê Văn Hảo.

Bên cạnh việc cải thiện hiệu quả hoạt động của công tác bảo đảm chất lượng theo mô hình hiện tại, điều quan trọng hơn, theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

- Thưa PGS, TS Lê Văn Hảo, phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục bên trong là một nhiệm vụ quan trọng nhằm cải thiện liên tục chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học, hướng đến đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện công tác giáo dục, đào tạo trong tình hình mới. Vậy nhưng, thực tế triển khai hoạt động này, theo nhiều rà soát, đánh giá, đang có nhiều vấn đề tồn tại, vướng mắc. Là một chuyên gia uy tín, hoạt động trong lĩnh vực kiểm định chất lượng giáo dục từ nhiều năm nay, ông có thể đánh giá về thực trạng hoạt động này?

- Việc xây dựng và phát triển hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong của bất kỳ tổ chức nào (có thể được hiểu bao gồm cơ cấu tổ chức, nguồn lực và hệ thống chính sách, công cụ giúp giám sát, đánh giá và cải tiến chất lượng) cũng phải gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của văn hóa chất lượng của tổ chức ấy. Nếu một tổ chức không quan tâm đến phát triển văn hóa chất lượng mà chỉ tập trung nỗ lực để nhằm đạt được các thành tích nhất thời thì hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong của tổ chức ấy cũng chỉ có ý nghĩa về mặt hình thức. Có thể nói, tồn tại chính hiện nay của nhiều cơ sở giáo dục chung quanh vấn đề này là mới chỉ nỗ lực để hình thành cái gọi là "Hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong" chẳng hạn như thiết lập một cơ chế, cơ cấu để quản lý, triển khai các yêu cầu của hoạt động kiểm định chất lượng mà chưa quan tâm đúng mực đến việc phát triển văn hóa chất lượng của nhà trường. Một tổ chức nói chung, và cơ sở giáo dục nói riêng, hoàn toàn có thể đạt được các mục tiêu chất lượng của mình nếu văn hóa chất lượng ở đó được nuôi dưỡng và không ngừng phát triển, mà không cần phát sinh thêm một bộ máy nhằm kiểm soát và đánh giá các hoạt động bảo đảm chất lượng. Sự phát triển về chất của nhiều cơ sở giáo dục trước đây, trước khi có khái niệm "hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong" đối với giáo dục đại học, là minh chứng cho điều này.

- Nhiều ý kiến cho rằng chúng ta đang thiếu một chính sách đủ mạnh để thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm chất lượng giáo dục bên trong bền vững. Ý kiến của ông về vấn đề này?

- Văn hóa chất lượng vốn đòi hỏi một quá trình nhất định để hình thành và trở thành các “niềm tin và thói quen chất lượng” bên trong cơ sở giáo dục. Nhiều cơ sở giáo dục trong tốp đầu của thế giới không đặt nặng việc thiết lập thêm một "Hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong" như cách mà hầu hết các cơ sở giáo dục của Việt Nam đang làm (chẳng hạn thành lập Hội đồng bảo đảm chất lượng, Phòng bảo đảm chất lượng, các tổ bảo đảm chất lượng ở các đơn vị, …) mà chỉ tập trung hoàn thiện các chính sách và cơ cấu bộ máy quản trị hiện có để thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược đã đề ra. Tất nhiên Việt Nam chưa thể sao chép các cách tiếp cận và mô hình quản trị của họ bởi văn hóa chất lượng ở các cơ sở giáo dục ấy đã phát triển ở mức tốt. Với mức độ phát triển như hiện nay của hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, sự hình thành hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong trong "giai đoạn quá độ" này là cần thiết, tuy nhiên điều quan trọng hơn là các cơ sở giáo dục cần chú ý đến sự phát triển của văn hóa chất lượng. Cho đến thời điểm hiện nay, có thể nói rằng hầu hết các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đã thiết lập hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong với các quy mô và cơ cấu khác nhau, tuy nhiên ở góc độ văn hóa chất lượng thì cá nhân tôi nhận định rằng mới chỉ có rất ít cơ sở giáo dục tự tin đánh giá mình đang ở mức tốt.

- Hiện tại, mỗi cơ sở giáo dục đang xây dựng và tiến hành hoạt động bảo đảm chất lượng bên trong theo một bộ tiêu chí và phương thức khảo sát, đánh giá riêng, chất lượng các phương thức khảo sát cũng ở các mức độ khác nhau. Theo ông, có nên xây dựng một bộ tiêu chí và phương thức khảo sát chung để tiến hành triển khai trên phạm vi toàn quốc?

- Việc xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong như thế nào ở mỗi các cơ sở giáo dục còn phụ thuộc vào các đặc trưng riêng của các cơ sở giáo dục, tuy nhiên về chiến lược và các hoạt động bảo đảm chất lượng cần có thì các cơ sở giáo dục có thể tham khảo các hướng dẫn hay tiêu chí từ các tổ chức có uy tín của khu vực hoặc thế giới như AUN (ASEAN University Network), APQN (Asia-Pacific Quality Network).

Về công cụ chính sách để giúp đẩy mạnh tính hiệu quả của hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong ở các cơ sở giáo dục, tôi cho là nên tích hợp đúng mực vào các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Tuy nhiên, các tiêu chí liên quan để đánh giá hệ thống này không nên chỉ tập trung về khía cạnh hình thức (như có Hội đồng bảo đảm chất lượng, Phòng bảo đảm chất lượng, các tổ bảo đảm chất lượng ở các đơn vị) mà cần quan tâm nhiều hơn đến tính hiệu quả và các thói quen chất lượng đã được hình thành và thể hiện ở cơ sở giáo dục.

Về các công cụ khảo sát các bên liên quan trong hoạt động bảo đảm chất lượng, bên cạnh các công cụ được thiết kế riêng để phù hợp với đặc trưng của cơ sở giáo dục, rất cần có các bộ công cụ chung cho cả hệ thống giáo dục đại học, chẳng hạn công cụ khảo sát sự hài lòng của người học về hoạt động đào tạo và hỗ trợ để có thể so sánh kết quả khảo sát giữa các cơ sở giáo dục. Tại Australia, "Student Experience Survey" là chương trình khảo sát thống nhất cấp quốc gia đối với các cơ sở giáo dục đại học, đã được định kỳ tổ chức trong nhiều năm qua và cung cấp nhiều thông tin đối sánh giá trị. Với Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên đặt hàng việc này cho một tổ chức độc lập có kinh nghiệm về tổ chức khảo sát để sớm bắt tay vào việc xây dựng bộ công cụ và triển khai thử nghiệm.

- Theo ông, cần có những giải pháp, phương thức nào để công tác bảo đảm chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học được nâng cao, thực chất hơn, hướng đến hình thành văn hóa chất lượng như ông nhấn mạnh, trong thời gian tới?

- Các chính sách gần đây liên quan đến phát triển, nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam không đặt ra mục tiêu gia tăng áp lực về các chỉ tiêu cần đạt được trong kiểm định chất lượng mà nhấn mạnh đến nhiệm vụ "tăng cường quản lý chất lượng" và "kiên trì xây dựng văn hóa học đường, văn hóa chất lượng" như được đề cập tại Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị (ban hành ngày 22/8/2025). Vì vậy, có thể thấy rằng trong thời gian tới, các cơ sở giáo dục cần có các kế hoạch, lộ trình và giải pháp cụ thể để cải thiện hiệu quả của công tác quản lý chất lượng trên tất cả các mặt hoạt động. Việc quản lý chất lượng này không chỉ đơn thuần là trách nhiệm của hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong đang được nhiều các cơ sở giáo dục hiểu và làm theo nghĩa hẹp (như bao gồm các hội đồng, đơn vị/tổ chuyên trách công tác bảo đảm chất lượng) mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và quản trị của các cơ sở giáo dục. Bên cạnh đó, mỗi cơ sở giáo dục cũng cần có chiến lược và các giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển các giá trị văn hóa trong nhà trường, mà trước hết là văn hóa học đường và văn hóa chất lượng. Các lý thuyết, mô hình, tiêu chí và các thực hành tốt đối với các hoạt động này hiện nay rất phong phú. Mỗi cơ sở giáo dục cần nghiên cứu để lựa chọn cách tiếp cận phù hợp với các đặc trưng và thực trạng của mình.

- Xin trân trọng cảm ơn ông ■

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ. 

Cần nhiều biện pháp để phát triển nghề cá theo hướng chuyên nghiệp, giảm cường lực khai thác, tăng cường nuôi biển. (Ảnh LÊ VĂN CHƯƠNG)

Gỡ... tư duy ăn xổi

Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải "tuyên chiến" với khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).