Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Có thể xem xét vai trò này trên ba phương diện:

Thứ nhất, triết lý trả lời cho các câu hỏi căn bản: “Chất lượng để làm gì, cho ai, và dựa trên giá trị nào?” Nếu thiếu triết lý rõ ràng, hoạt động bảo đảm chất lượng dễ rơi vào kỹ trị – đo lường cái dễ đo thay vì cái cần nuôi dưỡng.

Thứ hai, từ triết lý, nhà trường lựa chọn mô hình chất lượng phù hợp: tuân thủ chuẩn tối thiểu, cải tiến liên tục hay hướng đến xuất sắc. Quyết định này chịu ảnh hưởng bởi sứ mạng, tầm nhìn và nguồn lực của từng cơ sở giáo dục, đồng thời chi phối khung kiểm định, tiêu chí đánh giá và văn hóa chất lượng.

Thứ ba, triết lý nuôi dưỡng văn hóa chất lượng. Khi triết lý được chia sẻ rộng rãi, nó tạo nên sự gắn bó, tự giác và trách nhiệm, biến chất lượng thành cam kết nội sinh chứ không chỉ là yêu cầu từ bên ngoài. Đó chính là nền tảng của văn hóa chất lượng trong giáo dục đại học.

Tuy nhiên, thực tiễn tại Việt Nam cho thấy triết lý vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Các bộ tiêu chuẩn thường giản lược triết lý thành mục tiêu hay chuẩn đầu ra nhằm tiện cho đo lường, nhưng như vậy lại làm mất đi bản chất giá trị của nó. Hoạt động bảo đảm chất lượng nhiều nơi mang tính hình thức và kỹ trị: chạy theo minh chứng, quy trình kế hoạch – thực hiện – đánh giá – cải tiến, trong khi phần chìm – tức là văn hóa, niềm tin, giá trị và năng lực – ít được quan tâm.

Mối quan hệ giữa triết lýbảo đảm chất lượng là mối quan hệ nền tảng: triết lý định hướng mục tiêu và giá trị; bảo đảm chất lượng là cơ chế thực thi. Khi hai yếu tố này lệch pha, chất lượng dễ bị hiểu nhầm thành việc tối ưu các chỉ số thay vì phát triển con người. Trong bối cảnh AI tác động mạnh mẽ đến giáo dục, nguy cơ đó càng gia tăng. Do vậy, cần đặt ra câu hỏi: AI đang làm thay đổi các triết lý giáo dục truyền thống như thế nào, và kiểm định chất lượng cần điều chỉnh ra sao để vẫn gắn chặt với triết lý nền tảng của giáo dục?

Tác động của AI đến các triết lý giáo dục truyền thống

AI không chỉ là công cụ kỹ thuật mà còn là thách thức triết học sâu sắc. Nó buộc các triết lý giáo dục truyền thống phải tự chứng minh tính thích hợp của mình. AI vừa mở ra khả năng cá nhân hóa học tập, vừa đe dọa các giá trị nhân văn, hiện sinh và khai phóng trong giáo dục.

Với giáo dục khai phóng, mục tiêu là phát triển tư duy và tự do trí tuệ, song năng lực phân tích và đánh giá của AI có thể khiến người học ỷ lại, thay vì tự suy nghĩ. Với giáo dục hiện sinh, trọng tâm là lựa chọn đích thực, nhưng AI lại có xu hướng gợi ý và thay thế quyết định cá nhân. Với giáo dục nhân văn, con người là trung tâm, song khi AI vượt trội về tốc độ và độ chính xác, nguy cơ mất đi bản sắc người là điều hiện hữu. Với giáo dục thực dụng, học đi đôi với hành là cốt lõi, nhưng AI có thể mô phỏng trải nghiệm, rút ngắn quá trình thử – sai, khiến trải nghiệm thật mất đi ý nghĩa phát triển. Với sư phạm phê phán, mục tiêu là nuôi dưỡng tư duy phản biện, nhưng AI có thể củng cố thiên kiến dữ liệu – tái tạo những định kiến vốn có trong lịch sử nhận thức của máy. Cuối cùng, trong truyền thống Nho giáo, nơi tôn sư trọng đạo được xem là gốc rễ, AI làm suy yếu thẩm quyền đạo đức và mối liên hệ thầy – trò vốn mang tính nhân bản sâu sắc.

Tóm lại, trong bối cảnh giáo dục toàn cầu bị chi phối bởi chuẩn hóa, hiệu suất và kết quả đo đếm được, AI dường như là công cụ tối ưu: nhanh, chính xác, cá nhân hóa. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có nguy cơ biến người học thành sản phẩm kỹ thuật, đánh mất những trải nghiệm nhân văn - cảm xúc, thẩm mỹ và lựa chọn đạo đức. Giáo dục không thể chỉ đào tạo người "giỏi hơn máy", mà cần nuôi dưỡng con người có năng lực tự do trí tuệ để thoát khỏi "bóng tối" của dữ liệu hóa (đây là nói về AI đề xuất hoặc gợi ý nội dung theo thiên kiến - theo dữ liệu mà nó có làm lạc hướng phản tư của chúng ta) và có trách nhiệm đạo đức.

Tuy nhiên, có ba điều AI không thể thay thế con người:

- Trải nghiệm thực tế: AI chỉ "biết" những gì đã được lưu trữ trong dữ liệu quá khứ, trong khi trải nghiệm của con người diễn ra trong thời gian và không gian sống động, chứa đựng cảm xúc và biến cố không thể tái tạo.

Phản tư và lựa chọn giá trị: AI có thể gợi ý, nhưng lựa chọn tin tưởng, hành động và chịu trách nhiệm là phần thuộc về con người.

- Sáng tạo gắn với bối cảnh: Sự sáng tạo thật sự nảy sinh từ hiểu biết, mong muốn đổi mới và trải nghiệm xã hội cụ thể - điều vượt khỏi giới hạn của dữ liệu.

AI chỉ phát triển tốt khi con người đặt ra những câu hỏi hay và dẫn dắt nó bằng đạo đức. Việc giáo dục người học biết sử dụng AI một cách phản tư chính là bước nâng cao năng lực tự do trí tuệ - nền tảng của triết lý giáo dục hiện đại. Trong thời đại AI, học giỏi không còn là trả lời tốt các câu hỏi, mà là biết đặt ra những câu hỏi tốt. Chỉ khi người học có năng lực tự do trí tuệ và nền tảng đạo đức vững vàng, giáo dục đại học Việt Nam mới có thể đáp ứng tinh thần của Nghị quyết 71- NQ/TW - không chỉ "thực học, thực nghiệp" mà còn là nòng cốt của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điều đó đòi hỏi một triết lý giáo dục mới - không thay thế cái cũ, mà kết nối, diễn giải và mở rộng chúng trong bối cảnh AI.

Kiểm định dựa trên triết lý

Giáo dục đại học phải trở thành không gian khai phóng - không chỉ về tri thức mà còn về lương tâm và mục đích chung. AI sẽ định hình lại lý do và phương pháp giáo dục, nhưng nếu thiếu nền tảng triết lý, chính AI có thể thay thế giáo dục. Do đó, triết lý cần được thể hiện qua hành động, thông qua: i) Đổi mới sư phạm gắn với giá trị nhân văn; ii) Hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong dựa trên triết lý và iii) kiểm định gắn với bản sắc tổ chức.

Bài viết đề xuất khung kiểm định dựa trên triết lý - nghĩa là mỗi cơ sở giáo dục cần được đánh giá trong mối tương quan với triết lý riêng của mình. Cách tiếp cận này kết hợp tiêu chuẩn chung với tiêu chí bối cảnh, giúp các trường xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng phản ánh bản sắc và sứ mệnh riêng. Nhờ vậy, giáo dục không bị đồng nhất hóa mà vẫn giữ được tính đa dạng, sáng tạo và đặc thù - phù hợp với sự phân công sứ mạng trong toàn hệ thống: từ trường quốc gia, trọng điểm đến các trường địa phương và cộng đồng.

Giải pháp không phải là chọn giữa truyền thống và đổi mới, mà là kiến tạo một hệ sinh thái thích ứng - nơi AI, kiểm định, sứ mạng và triết lý đối thoại, bổ sung và làm giàu cho nhau, thay vì loại trừ nhau ■

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung.