Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Khi cái đẹp đổi thay

Trước khi có sự ra đời của Trường Mỹ thuật Đông Dương, người Việt Nam đã được làm quen với việc đào tạo về mỹ thuật và mỹ nghệ thông qua hệ thống giáo dục phổ thông và mô hình trường nghề, trường sơ cấp mỹ thuật ở Sài Gòn-Gia Định và Đồng Nai; các trường nghề đào tạo thợ chuyên môn cao về đồ mộc, đồ gốm để sau khi ra trường, họ trở thành những hạt nhân thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề mỹ nghệ thủ công ở địa phương. Các mô hình nói trên đã góp phần khơi mở tinh thần sáng tạo, cởi mở với cái mới, cái hiện đại của người Việt Nam trên nền tảng truyền thống thẩm mỹ đặc sắc.

Sự ra đời của ngôi trường và sự xuất hiện của hàng loạt tên tuổi quan trọng của thời kỳ đầu tiên của mỹ thuật hiện đại Việt Nam đã được ghi dấu bằng tên gọi: Thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương, tính từ khi nhà trường bắt đầu khai giảng cho đến trước Cách mạng Tháng Tám, năm 1945. Chất liệu sơn dầu có lẽ được xem là chất liệu chính yếu đối với sinh viên ngành hội họa, ngay từ khóa học đầu tiên. Các chất liệu như lụa và sơn mài được sinh viên tiếp cận muộn hơn. Nhưng chính các chất liệu có nguồn gốc Đông phương này lại được nhiều sinh viên nhà trường say mê tìm hiểu và kết hợp với bảng từ vựng hội họa hiện đại, tạo nên những bức tranh chứa đựng tâm hồn và tinh thần Việt Nam riêng biệt.

Đó là họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (1892-1984), sinh viên Khóa 1 với những bức tranh lụa vẽ cảnh sinh hoạt ở thôn quê Việt Nam, giản dị và hiện thực mà gây tiếng vang lớn ở Triển lãm thuộc địa quốc tế (L'exposition coloniale internationale de 1931) tại Paris (Pháp). Tuần báo L’Illustration, số ra ngày 27/6/1931 và sau đó là số Noel năm 1932, có bài viết về ông, đăng nhiều ảnh tác phẩm của ông. Đó là Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993), sinh viên Khóa 4, người dành trọn cuộc đời sáng tác của mình cho hội họa sơn mài, được phát triển từ chất liệu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Các tác phẩm của ông, ngay từ khi mới xuất hiện, đã trở nên nổi tiếng, đưa tên tuổi của ông đứng đầu trong Tứ trụ của Thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương: Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn.

Trong 18 khóa đào tạo của Trường Mỹ thuật Đông Dương, có nhiều sinh viên giỏi về chất liệu sơn dầu và điêu khắc. Nhưng sự vượt trội của họ lại chính nhờ vào khả năng thể hiện tâm hồn và suy tưởng của mình thông qua tác phẩm chứ không phải thuần túy chỉ là sự điêu luyện của kỹ thuật tạo hình. Tô Ngọc Vân sớm nổi tiếng với những bức tranh về vẻ đẹp người phụ nữ tiểu tư sản thành thị. Vũ Cao Đàm nổi tiếng với những tác phẩm điêu khắc thể hiện được một cách đầy đặn dung mạo của người Việt đương thời.

Một điều mang ý nghĩa xã hội quan trọng là không chỉ tập trung cho các sáng tác mang dấu ấn và chữ ký cá nhân, nhiều họa sĩ đương thời còn tham dự một cách chủ động và tha thiết vào cuộc sống xã hội đương thời, tác động mạnh mẽ đến nhận thức xã hội và nhận thức thẩm mỹ của người Việt khi đó. Họ tham gia vẽ ký họa, tranh châm biếm những thói tật xấu trong xã hội phong kiến trên báo chí. Họ khai mở những thay đổi thẩm mỹ, khuyến khích con người ý thức hơn về vẻ đẹp cá nhân thông qua những sáng tạo thời trang, như Lê Phổ và Nguyễn Cát Tường với tiệm may tân thời Le Mur nổi tiếng, nơi tạo ra hàng trăm mẫu giày, sandal, đầm và đặc biệt là bộ áo dài tân thời từng đi vào tranh của Nguyễn Gia Trí, nay đã trở thành trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam hiện đại. Trước sự tân tiến của phương Tây, những cách thức vận trang phục mới đã được chính giới họa sĩ nghiên cứu và đưa ra để vẫn bảo đảm sự kín đáo, e lệ của người nữ phương Đông nhưng cũng không kém phần hiện đại và gợi cảm.

Những tinh thần sáng tạo cá nhân hoàn toàn mới, trên nền tảng tinh thần dân tộc mạnh mẽ, đã tạo ra một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.

tri-1.jpg
Một mặt của bức bình phong sơn mài do Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1939, khổ 159x400cm, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Lan tỏa tinh thần phụng sự dân tộc

Hòa chung khát vọng độc lập dân tộc, nhiều cựu sinh viên, giảng viên của ngôi trường mỹ thuật danh giá ấy đã nhanh chóng xác quyết hướng đi cuộc đời mới.

Các họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Huỳnh Văn Gấm được bầu vào Quốc hội khóa I (1946-1960). Các họa sĩ Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Sỹ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Tư Nghiêm… lên chiến khu Việt Bắc, tham gia nhiều hoạt động văn hóa- văn nghệ ở chiến khu. Trong khi họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung vào chiến trường Khu 5, mở các lớp đào tạo ngắn hạn cho những người có năng khiếu hội họa để nhân rộng phong trào hội họa kháng chiến, ở Việt Bắc, họa sĩ Tô Ngọc Vân tiếp tục tìm cách gây dựng lại Trường Mỹ thuật Việt Nam, đã có quyết định thành lập ngay sau ngày 2/9/1945. Ngôi trường ấy là sự kế tục truyền thống đào tạo hàn lâm bài bản từ Trường Mỹ thuật Đông Dương. Thực tiễn của đất nước trong hoàn cảnh kháng chiến khiến Tô Ngọc Vân nhận thấy rõ việc cần kíp phải đào tạo một cách tập trung và chính quy hơn cho những người có năng khiếu vẽ để làm mọi công tác trong kháng chiến với hội họa và đặc biệt, ông mong chờ từ những người có năng khiếu tạo hình và thẩm mỹ ấy sẽ có một lớp họa sĩ-nghệ sĩ thực thụ. “Đó cũng là một hành động để “chuyển hướng nghệ thuật” chung cho đất nước”, theo nhận định của họa sĩ Ngô Tôn Đệ, một trong 22 sinh viên của khóa Mỹ thuật kháng chiến (1950-1954) về tinh thần phụng sự dân tộc của người thầy khả kính, thể hiện đậm nét ở cả hai góc độ hoạt động xã hội và hoạt động sáng tạo nghệ thuật của cá nhân nghệ sĩ.

lcn.jpg
Lưu Công Nhân, Một buổi cày, sơn dầu, sáng tác năm 1960, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Từ nền tảng kiến thức mỹ thuật được trao truyền một cách bài bản cùng thấm nhuần tinh thần cống hiến, lớp lớp các họa sĩ, nhà điêu khắc hậu thế tiếp tục đóng góp tâm huyết và trí tuệ của mình vào hầu khắp các lĩnh vực trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước. Ở hậu phương, họ tham gia trình bày sách, báo, tạp chí đến điện ảnh, phim hoạt hình, mỹ thuật sân khấu, phổ biến tranh tuyên truyền cổ động, thiết kế những biểu tượng của quốc gia như Quốc huy, tiền giấy, tiền xu, giảng dạy tại nhiều cơ sở giáo dục nghệ thuật được mở về sau này trên khắp cả nước. Ở tiền tuyến, họ tham gia chiến đấu, kiên cường như bất kỳ người lính nào và khi ngưng tiếng súng, họ lại vẽ, bày tranh cho quân và dân xem, tranh thủ dạy vẽ cho những đồng đội và bà con khác…

Khi đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, cùng với việc thành lập Trường cao đẳng mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, nay là Trường đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, và duy trì trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế (thành lập năm 1957), nay là Trường đại học Nghệ thuật thuộc Đại học Huế, số lượng sinh viên theo học mỹ thuật trên cả nước ngày một tăng cao, lan tỏa rộng dài tình cảm dành cho mỹ thuật trong xã hội.

Một điều nổi bật là các thế hệ giảng viên, sinh viên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương năm xưa, dù thuộc giai đoạn phát triển nào, mang tên gì, cũng luôn đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm về giảng dạy, nghiên cứu khoa học và thúc đẩy tinh thần sáng tạo của người dạy và người học về nghệ thuật tạo hình, góp phần truyền cảm hứng và lan tỏa rộng khắp tinh thần của “mỹ thuật Yết Kiêu”.

Theo PGS, TS Phan Thanh Bình, nguyên Hiệu trường Trường đại học Nghệ thuật, Đại học Huế, ngay từ sau ngày thống nhất đất nước, Trường cao đẳng Mỹ thuật Huế đã nhận được rất nhiều hỗ trợ về nhân lực và tài liệu chuyên môn từ ngôi trường số 42, phố Yết Kiêu, Hà Nội. “Từ năm 1976-1982, Trường Mỹ thuật Hà Nội đã cử nhiều họa sĩ, giảng viên danh tiếng vào tham gia giảng dạy, chấm bài chuyên khoa của bậc cao đẳng và bài tốt nghiệp: Các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị dạy chuyên khoa sơn dầu, hình họa, họa sĩ Lê Thiệp dạy định luật xa gần, khắc gỗ, họa sĩ Phạm Văn Đôn dạy hình họa và đồ họa, các giảng viên-nhà điêu khắc Phạm Gia Giang, Nguyễn Thị Kim, Vương Học Báo dạy điêu khắc…”, ông Bình nhớ lại.

Qua thời gian, cho dù là học ở dưới mái trường nghệ thuật nào, hay kể cả tự học, tinh thần sáng tạo trên nền tảng các giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc cùng tha thiết được đóng góp vào tiến bộ thẩm mỹ của xã hội trong thời đại mới luôn là kim chỉ nam cho hành trình sáng tác của các thế hệ họa sĩ, nhà điêu khắc.

Nhiều bức tranh được vinh danh trong danh sách Bảo vật quốc gia của đất nước đã được ra đời trong những hoàn cảnh gian khó giữa chiến tranh hay thời bao cấp thiếu thốn của các tác giả. Nhiều họa sĩ đã giữ vị trí tiên phong trong đổi mới ngôn ngữ tạo hình, dấn bước trên những lối đi riêng với tầm nhìn rộng mở cùng bản lĩnh nghệ sĩ mạnh mẽ, tạo nên một thời kỳ hội họa Đổi mới táo bạo, quyết liệt mà vẫn thấm đượm tinh thần dân tộc. Nói như họa sĩ Đào Hải Phong, một họa sĩ nổi bật của thời kỳ ấy, trong một cuộc trò chuyện với chúng tôi, rằng ông tự hào vì thế hệ của ông đã “cùng nhau tạo nên được một diện mạo hội họa Việt Nam, khác với tất cả chứ không có lai căng hội họa Âu, Tàu, Mỹ, Nhật,….”.

Hoàn cảnh xã hội mới trong thời kỳ Đổi mới đã mở ra nhiều hướng đi trong sáng tạo nghệ thuật ở Việt Nam. Các họa sĩ, nghệ sĩ điêu khắc Việt Nam, với tính sáng tạo, lại gặp được ngoại cảnh tác động và khơi mở những tiềm năng, đã tiên phong thử nghiệm và thực hành các hình thức nghệ thuật thị giác mới mẻ hoàn toàn đối với chính họ và công chúng trong nước, như nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn, video art, nghệ thuật đa phương tiện đã được xem là bước đi tất yếu. Các thế hệ nghệ sĩ đương đại còn đóng góp rất nhiều cho cộng đồng thông qua việc thành lập những nhóm sinh hoạt chung, hoặc gây dựng những không gian sáng tạo thuần chất, phi lợi nhuận, khuyến khích và thúc đẩy sự sáng tạo trong các thế hệ nghệ sĩ ở nhiều địa hạt khác.

Trong xu thế không thể cưỡng lại của sự hội nhập với thế giới, vị thế của mỹ thuật trong đời sống xã hội ở Việt Nam cho thấy khát vọng lớn của một dân tộc hướng đến sự văn minh chung của nhân loại, tôn trọng những giá trị căn bản của sáng tạo và sự tiến bộ về thẩm mỹ.

Có thể bạn quan tâm

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ. 

Cần nhiều biện pháp để phát triển nghề cá theo hướng chuyên nghiệp, giảm cường lực khai thác, tăng cường nuôi biển. (Ảnh LÊ VĂN CHƯƠNG)

Gỡ... tư duy ăn xổi

Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải "tuyên chiến" với khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).

Lực lượng chức năng Cảnh sát biển Việt Nam truy đuổi tàu cá vi phạm vùng biển khai thác.

Kiên quyết ngăn chặn vi phạm IUU

Những vi phạm trong khai thác đã ảnh hưởng đến uy tín cũng như sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Việc xử lý tàu cá vi phạm và các "đầu nậu", vì thế, cần được triển khai hiệu quả hơn.

Ông Vũ Duyên Hải, Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Nỗ lực gỡ "thẻ vàng" của Việt Nam được đánh giá cao

Đến thời điểm này, toàn bộ tàu cá của Việt Nam đã được đăng ký và nhập dữ liệu lên hệ thống Cơ sở dữ liệu nghề cá quốc gia (VNFishbase). Đây là khẳng định của ông Vũ Duyên Hải (ảnh bên), Phó Cục trưởng Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khi trả lời phỏng vấn Nhân Dân cuối tuần.