Nền tảng cho phát triển bền vững

Trong bối cảnh thế giới đối mặt với biến đổi khí hậu, xu hướng khử carbon, chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang các nguồn năng lượng sạch đã trở thành chiến lược trung tâm của nhiều quốc gia.

Chuyển đổi sang các nguồn năng lượng sạch là giải pháp giúp Việt Nam hoàn thành các mục tiêu phát triển. (Ảnh Thế Đại)
Chuyển đổi sang các nguồn năng lượng sạch là giải pháp giúp Việt Nam hoàn thành các mục tiêu phát triển. (Ảnh Thế Đại)

Yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế

Đối với Việt Nam, vấn đề an ninh năng lượng vẫn là bài toán đầy thách thức. Phát triển điện năng cần phải đón đầu nhu cầu tiêu thụ năng lượng nhằm đáp ứng đòi hỏi từ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng hai con số trong thời gian tới.

Theo Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030, tỷ lệ năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) đạt 28-36%, và tăng lên 74-75% vào năm 2050. Chuyển đổi năng lượng, vì thế, đã và đang trở thành giải pháp cấp bách nhằm hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng cũng như phát triển bền vững của Việt Nam.

Tại Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025, Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn,
Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, nhấn mạnh: "Năm 2024, tỷ trọng nguồn điện năng lượng tái tạo (ngoài thủy điện) chiếm 27,2%, thủy điện chiếm 27,9%, điện than chiếm 32,6%. Chúng ta có thể tự hào khi đang sống ở một quốc gia có tỷ lệ năng lượng tái tạo rất cao trong tổng công suất nguồn điện. Thành quả này càng có ý nghĩa trong bối cảnh chúng ta thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) mới được hơn hai năm. Trong khi đó, kế hoạch phân bổ công suất các nguồn năng lượng tái tạo chỉ mới được ban hành được hơn một năm, từ 1/4/2024".

Dẫu vậy, cũng theo ông Tuấn, Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn 2026-2028 do các nguồn điện của chúng ta tăng chậm, trong khi nguồn năng lượng tái tạo thì đang chững lại. Một số nguyên nhân có thể kể đến như: các quy định về điện gió ngoài khơi đã cụ thể và chi tiết hơn, nhưng vẫn chưa đủ để triển khai. Hay vấn đề chuyển đổi nhiệt điện than sang điện khí còn chậm, do chúng ta còn thiếu cơ chế để chuyển ngang giá khí và sản lượng hợp đồng, khiến thời gian vận hành để bảo đảm thu hồi vốn sẽ dài, vì thế chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư.

Giải bài toán chuyển đổi năng lượng

Điểm nghẽn lớn nhất hiện nay của năng lượng tái tạo tại Việt Nam nằm ở tính gián đoạn và thiếu hạ tầng đồng bộ. Thực tế cho thấy, do không có hệ thống lưu trữ (ESS), truyền tải quá tải và thiếu cơ chế điều độ linh hoạt, có thời điểm nguồn năng lượng tái tạo buộc phải cắt giảm 1,3 tỷ kWh.

Vì đặc thù "phụ thuộc thời tiết", điện gió - điện mặt trời chỉ phát mạnh theo giờ, theo mùa và không

thể điều độ như nhiệt điện. Nếu không có công nghệ quản lý và lưu trữ đi kèm, năng lượng tái tạo rất dễ gây mất cân bằng cung - cầu, khiến cả hệ thống điện bị động, chi phí vận hành tăng và gây ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh năng lượng. Vì vậy, các chuyên gia nhận định Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư vào lưu trữ năng lượng (ESS), trí tuệ nhân tạo (AI), lưới điện thông minh (smart grid) giúp điều độ hiệu quả, hạn chế cắt giảm công suất và biến năng lượng tái tạo từ "nguồn năng lượng thời tiết" thành "nguồn năng lượng nền" của tương lai.

Trên thế giới, các công nghệ lưu trữ như pin thể rắn, pin dòng chảy, thủy điện tích năng (PHS) và lưu trữ tối ưu hóa vận hành đã chứng minh hiệu quả trong việc cân bằng cung-cầu và giảm nghẽn lưới. Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII cũng chỉ rõ cần ưu tiên đầu tư vào ESS tại các vùng có năng lượng tái tạo dư thừa, kết hợp nâng cấp lưới truyền tải 500 kV và thí điểm thị trường dịch vụ phụ trợ để ESS có đất sống.

Bên cạnh đó, AI và lưới điện thông minh cũng góp phần giải quyết vấn đề điều tiết năng lượng. Nhờ phân tích dữ liệu thời gian thực, hai công nghệ này giúp dự báo sản lượng điện gió, điện mặt trời và tự động điều phối nguồn điện, qua đó giảm hao tổn và tối ưu vận hành. Tại Việt Nam, các dự án điện gió ở Bạc Liêu, Ninh Thuận và Bình Thuận đã bắt đầu ứng dụng AI dự báo hướng và tốc độ gió.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn, để nâng cao mức độ sẵn sàng của Việt Nam trong phát triển năng lượng mới và năng lượng tái tạo, chúng ta cần sớm chú trọng năm nhóm giải pháp.

Thứ nhất, Việt Nam cần sớm hoàn thiện chính sách và cơ chế giá điện ổn định. Cơ chế giá là yếu tố then chốt thúc đẩy hay kìm hãm phát triển năng lượng tái tạo. Kinh nghiệm vừa qua cho thấy sự thay đổi đột ngột về giá gây tác động tiêu cực đến thị trường. Do đó, chúng ta nên triển khai đấu giá cạnh tranh, hoàn thiện tiêu chuẩn phân loại xanh quốc gia.

Thứ hai, Việt Nam cần đầu tư vào hạ tầng truyền tải và lưu trữ năng lượng. Chúng ta cần ưu tiên nâng cấp lưới điện, khuyến khích phát triển hệ thống ESS quy mô lớn và cải thiện năng lực dự báo năng lượng tái tạo.

Thứ ba, cần thúc đẩy nghiên cứu, phát triển công nghệ và chuỗi cung ứng trong nước. Trong đó, Việt Nam cần khuyến khích sự phối hợp giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, tập trung vào các công nghệ then chốt.

Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam cần mở rộng đào tạo, phát triển kỹ năng thực hành, kết hợp lý thuyết và thực tiễn, đặc biệt trong lĩnh vực sinh khối và năng lượng sạch.

Cuối cùng là tối ưu hóa tài chính xanh. Chúng ta cần tận dụng vốn JETP (Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng) vào phát triển năng lượng tái tạo. Mặt khác, nên thu hút tư nhân qua DPPA (hình thức mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện và khách hàng, không thông qua đơn vị trung gian như Tập đoàn Điện lực Việt Nam- EVN) và các mô hình đối tác công - tư (PPP) vào phát triển năng lượng tái tạo ■

Tính đến 2025, Việt Nam đã vươn lên nhóm dẫn đầu Đông Nam Á với tổng công suất lũy kế điện mặt trời đạt khoảng 18,6 GW vào năm 2023; tổng công suất gió và mặt trời đã vượt 21 GW, thuộc nhóm tăng trưởng nhanh nhất châu Á.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.