Lấp lánh mây xanh tóc trắng

(Ðọc Mây xanh tóc trắng của Thế Văn)★

Bởi thân tình, bởi biết tôi có làm thơ, đôi khi anh có đọc cho nghe mấy bài thơ anh viết. Tôi thấy anh có một phong thái riêng, bài nào cũng có ý tứ lạ và lời lẽ cô đúc, trau chuốt nhưng cũng không dễ cảm, dễ hiểu với khá đông người đọc ưa đọc qua là hiểu như đọc diễn ca. Anh cho biết, đã làm thơ từ ngày sinh viên nhưng ít ai biết, ít đưa ra ngoài.

Lấp lánh mây xanh tóc trắng

Do việc làm báo căng thẳng và bận rộn, lại phải lo mưu sinh nữa, thi thoảng anh mới làm thơ, có bài đem đăng báo hoặc là tự phổ nhạc, có bài để đấy, có bài đọc lại không thấy thích nên bỏ đi. Anh cho hay rằng mình không có duyên thơ, cũng không vướng nghiệp thơ (như đã viết trong Lời tựa), nên một đời in một tập cũng là phải lẽ.

Anh là người tự biết mình lắm. Tri túc tri chỉ, tri kỷ tri bỉ. Anh nói: Chúng ta (chỉ anh và tôi) chỉ là hạt bụi trong đời. Vốn đã nhỏ nhoi hạt bụi lại mất 80% sức lực vì sinh kế, có đâu sức lực, thời gian để chuyên chú văn chương. Cho nên Mây xanh tóc trắng của mình chỉ là hạt cát, may chi có chút lấp lánh riêng để ánh mắt tri âm có thể nhận ra. Cái tự mãn của mình là mình nói lên được điều mình nghĩ, không giả, không vụ danh, vụ lợi... Và nếu con cháu có đọc, chúng sẽ thấy thêm một con người khác của cha, ông chúng. Thế thôi. Rồi cát bụi lại trở về cát bụi...

Mây xanh tóc trắng có hai phần, phần Việt ngữ và phần Hán ngữ.

Trước hết cảm nhận về thơ Việt ngữ. Lấp lánh đầu tiên tôi cảm nhận được là sự dụng công, là “thuật” dùng từ. Khi viết báo, Thế Văn đã không chịu dùng lại từ ngữ cũ, kể cả của mình. Làm thơ càng vậy. Làm thì nhiều mà không được bao nhiêu: Xới chữ tung tóe trang viết/ Châng hâng mùa lắm cỏ may. Nói về thiếu nữ thôn quê dấn thân kiếm sống nơi phố thị, anh gieo quẻ Quầng sáng ảo mờ xa ngái/ Con gái phiêu linh phồn hoa. Ði Chùa Hương, anh nghĩ đến đường đời chênh vênh vô định, có đấy mà không đấy: Chấp chới mây/ Ðuôi Én/ Khỏa không/ Miền mơ Hương...

Nếu bắt được tư duy của anh, thì như nhìn thấy cả con đường mà mỗi từ là một cọc tiêu sáng dẫn dắt, được đặt đúng chỗ; nếu không bắt được ý tứ thì dễ coi là rời rạc, cầu kỳ.

Ta về bú mẹ Âu Cơ là một bài thơ tái hiện được không khí tưng bừng Lễ hội Ðền Hùng. Rất nhiều, rất nhiều liên tưởng, sợi dọc, sợi ngang, sợi xưa, sợi nay xoắn bện, đan xen “mười tám tia ngũ sắc” dưới Chói lói bánh xe mặt trời ở giữa rạng rỡ, chắc bền như trường tồn dân tộc, có sức cuốn hút mọi tâm hồn Việt ở khắp bốn phương trời hướng về nguồn cội. Câu chữ và hình ảnh xoắn bện vào nhau, cái tĩnh ôm chứa cái động: Sóng ngã ba sông/ Chập chờn hạc trắng/ Vòm Hy Cương/ Phập phồng bọc trứng/ ...Làng mạc nối nhau dải yếm Mỵ Nương/ Sắc tộc nắm tay nhau/ Căng mặt trống đồng/Sẻ đôi bánh dày/ Bánh chưng chia bốn/ Cau non bổ năm/ Bắn nỏ/ Múa khiên/ Ðua thuyền/ Hát ghẹo...

Thế Văn ít viết lục bát. Nhưng đã viết thì kỹ. Tình và ý nhịp nhàng 6-8. Thường người ta ra ngõ mới biết có, biết nhớ ngôi nhà của mình. Qua ải Chi Lăng, anh viết:

Ải thiêng ai đã đi qua

Biết mình có một sơn hà trong tim!

Ðó là một câu thơ thần tình về lòng yêu nước. Câu Ðêm trôi vào cõi mông lung/ Bỗng ran tiếng dế ấm nồng đất đai trong bài Ðêm quê rất Việt Nam tình cảm mà cũng rất Ðường thi triết lý. Viết về một người thân yêu đã xa Xa như câu hát sang đò/ Xưa như lau lách lơ thơ cuối trời thì không nói nhớ tiếc mà rất nhiều nhớ tiếc. Tình tại ngôn ngoại là thế!

Thế Văn là một người rất hiền. Thời trẻ tài hoa bóng chuyền, bóng đá, sáo trúc, đàn bầu, ghi-ta rộn vui sân 71 Hàng Trống những năm 70 thế kỷ trước. Ðôi khi “khoa trương” một chút rồi lại lặng lẽ góc riêng ẩn sĩ. Ấy vậy mà thơ tình sao mà cũng đằm, cũng da diết lắm.

Em có đứng canh chừng nụ hé

Ðợi một sớm mai cây thắp lửa đầu cành

Vườn trái chín ửng một trời thương nhớ

Gọi anh về uống mát dưới vòm xanh

(Khoảng vườn xanh)

Tăng gô cho em là một bài thơ tình hay, anh đã tự phổ nhạc, Ðài Truyền hình TP Hồ Chí Minh chọn đưa vào album Thầm lặng một tình yêu quãng 30 năm trước (khúc tăng-gô này được ca sĩ Thanh Thúy trẻ măng thời đó hát).

Viết về mẹ là điều dễ nhất đối với mọi người vì mẹ cho ta cảm xúc mạnh mẽ, dâng trào nhiều cung bậc nhất. Nhưng viết về mẹ cũng là khó nhất vì khó có từ ngữ nào sánh với tình mẫu tử. Tôi từng gặp cái khó ấy khi viết về Tổ quốc nên có câu Không nói được thành lời, thì gọi Tổ quốc ơi! Thế Văn có cách gọi mẹ thật tài tình: Trên thế gian này/ Khi còn lời ca/ Trên thế gian này/ Khi còn tiếng nói/Thì trên vành môi/ Còn lời gọi mẹ/Thì trên vành môi/Còn lời gọi mẹ/Mẹ của con ơi! (Mẹ của con).

Thế Văn dụng công tìm tòi trong thơ, từ cấu trúc đến ngôn từ. Nhưng điều đáng nói nhất là anh có cách tư duy khác biệt.

Hầu như bài thơ nào cũng ẩn một thông điệp dưới tầng câu chữ. Và đó là một triết lý nhân sinh, hướng đến cái thiện, cái thật, cái hay, cái đẹp.

Phần thơ Hán ngữ của Thế Văn có 22 bài, 10 bài viết trong chuyến đi Trung Quốc vào tháng 10-2000, gọi là Bắc hành thập vịnh và 12 bài lấy cảm hứng trong nước gọi là Lãng du hứng tác.

Biết chữ Hán đã khó, làm thơ bằng chữ Hán càng khó gấp bội. “Nhập gia tùy tục”, làm thơ chữ Hán phải thuộc và theo được luật lệ của cổ thi, luật thi. Nếu không, nó sẽ bật ra ngoài thành một xa lạ. Thế Văn nói rằng đây là người Việt hiện đại làm thơ nói chí, nói ý, nói tình người Việt, chỉ mượn văn tự Hán làm phương tiện chuyên chở thôi mà, đâu phải thơ của ông đồ thuở trước câu nệ đủ thứ niêm với luật. Thế nhưng vẫn có một số bài gợi phong thái cổ thi như Mai lệ, Cố cung, Di hòa viên... Nhược điểm của nó là ý tứ không thoát ra khỏi hơi hướng ý tứ của người xưa. Thế Văn có cái may là thông qua bè bạn mà mấy bài cổ thi này tới tay nhà đại thư pháp Trung Quốc Lỗ Nguyên. Lỗ tiên sinh do hào hứng với cổ thi nên đã đem Di hòa viên viết ra bức thư pháp khổ lớn gửi tặng tác giả.

Do chỉ mượn văn tự Hán thôi, nên tác giả đã có thể rộng tay hơn trong việc chọn chữ để dùng. Thậm chí có bài như “Minh thành” (Thành nhà Minh) không phải thể thơ bác học mà thuộc thể thơ dân gian Trung Quốc (ta gọi là vè), 3 chữ , dân gõ mõ 3 tiếng một “cốp cốp cốp” cùng lúc với đọc lời vè. Minh thành cố/ Minh triều hung/Lân bang khổ/ Hán dân cùng…

Thơ Thế Văn vì thế mà thú vị, và có ích. Xin chúc mừng và cảm ơn anh!

(★) NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, tháng 11-2019

Có thể bạn quan tâm

Bìa tập thơ "Hoa nắng".

Hương sắc và ánh sáng từ "Hoa nắng"

Vào dịp Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, 80 năm Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, NXB Hội Nhà văn chọn in tuyển tập thơ của nhà báo, nhà thơ Hồng Vinh, khẳng định sự đóng góp của ông trên lĩnh vực báo chí và văn học, tôn vinh một nhà báo cách mạng có ảnh hưởng xã hội xuyên suốt hai thế kỷ.

Tác giả Lê Quốc Vinh – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Le Bros, tại buổi ra mắt cuốn sách "Khủng hoảng không bắt đầu từ truyền thông", ngày 21/6 ở Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Hùng

Khủng hoảng không bắt đầu từ truyền thông

Đây là tiêu đề khá đặc biệt của một trong những cuốn sách hiếm hoi về quản trị khủng hoảng, chứa đựng những tích lũy, đúc kết một cách bài bản từ kinh nghiệm thực tế qua hàng loạt các dự án quản trị khủng hoảng truyền thông đã thực hiện trong hàng chục năm qua của tác giả Lê Quốc Vinh vừa được chính thức ra vào chiều 21/6/2024 tại Hà Nội. Cuốn sách thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà báo, chuyên gia trong ngành truyền thông, lãnh đạo doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực.
Học làm người, học làm cách mạng qua "Nhật ký trong tù"

Học làm người, học làm cách mạng qua "Nhật ký trong tù"

Giáo sư, nhà thơ Hà Minh Đức là nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học đã in đậm tên mình trên những thành tựu nghiên cứu, giảng dạy về văn học Việt Nam hiện đại. Ông còn giữ chức Viện trưởng Văn học, Chủ nhiệm Khoa Báo chí Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia) ngày đầu thành lập (năm 1995).
Nhà báo Phạm Thanh (người mặc áo khoác trắng) cùng nhà báo Đỗ Quảng (người đầu tiên, bên trái), phỏng vấn phi công lái máy bay B52 Mỹ bị bắt tại bãi đá Phương Liệt, Hà Nội đêm 25/12/1972. Ảnh: Bảo tàng Báo chí Việt Nam

Một nhà báo Nhân Dân, một tâm hồn Hà Nội

Năm 1958, Báo Nhân Dân chủ trương tuyển dụng một số thanh niên trí thức của thành phố Hà Nội mới giải phóng và các địa phương khác để bổ sung lực lượng trẻ. Trong số đó có Đỗ Quảng, Phạm Duy Phùng, Mai Hân, Tân Thanh, Vũ Hạnh Hiên, Nguyễn Thị Nghệ, Phạm Việt Hải… Ở lại lâu nhất với Báo Nhân Dân, chỉ với chức danh phóng viên, nhưng Đỗ Quảng là cây bút nổi tiếng trên hai lĩnh vực: Phóng viên chiến tranh trong các cuộc kháng chiến và phóng sự điều tra trong thời kỳ đổi mới.
Một tác phẩm nhiều tâm huyết, lôi cuốn người đọc. Ảnh: Văn Học

Một công trình nghiên cứu về Nguyễn Bính có nhiều nét mới

Một ngày cuối năm dương lịch 2023, nhà thơ, TS Nguyễn Sĩ Đại đến thăm và tặng tôi "đứa con tinh thần" vừa ra đời trong năm 2023: "Nguyễn Bính - hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệp" (Tiểu luận, phê bình) do Nhà xuất bản Văn học ấn hành, bìa được trình bày nền nã, bắt mắt.
Quang cảnh cuộc gặp mặt.

Lưu dấu "Hoa đời mùa sau"

Chân thành, giản dị, sắc sảo, tươi trẻ, hồn nhiên… là những "từ khóa" mà các đại biểu, bằng hữu, bạn đọc dành để nói về nhà báo, nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh tại buổi gặp mặt, giới thiệu tập thơ mới của ông. Và, cuộc "hội thảo" đặc biệt ấy còn để lại những dư ba như câu thơ ông viết: "Trang sách đời chưa kết/ Thơ vang khúc nhạc đầu/Hạt ủ thầm trong đất/Nở hoa đời mùa sau!...".
Nhà báo, nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh tham dự Lễ ra mắt Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật trung ương nhiệm kỳ 2021-2026, sáng 26/10 tại Hà Nội.

Những bài ca về cuộc sống (Một chút cảm nhận về tập thơ Vang âm tiếng sóng)

Tập thơ Vang âm tiếng sóng của nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh bao gồm những bài thơ ông viết từ năm 2020. Chỉ mới hơn hai năm mà ông đã sáng tác được số lượng thơ khá lớn như vậy - đó là một việc không dễ dàng một chút nào, nhất là với người đã vào tuổi "xưa nay hiếm". Với sức sáng tạo như thế, tôi nghĩ rằng: Bởi mỗi bước đi của ông, mỗi một ngày ông sống đều ngập tràn cảm hứng trước cuộc sống của con người, của dân tộc. Thơ ca như hiện diện mọi nơi trên mảnh đất này chỉ đợi ông bước đến và cất tiếng. Hơn hai năm qua có biết bao biến động, bao sóng gió và bao thách thức đối với mỗi con người Việt Nam và đối với cả dân tộc. Nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh cũng là một con người đi qua những biến động, những sóng gió, những thách thức như mọi người Việt Nam khác. Nhưng có một điều vô cùng đặc biệt mà tôi nhận ra là: Ông đi qua tất cả mọi điều đó và làm cho tất cả những điều đó vang lên như những tiếng chuông của niềm vui và hy vọng. Đấy chính là bản chất của văn chương ở mọi thời đại trong lịch sử nhân loại. Văn chương làm cho con người mang khát vọng sống lớn lao dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào của lịch sử.
Đọc "Tiếc nuối hoa hồng" - du ký của Phan Quang (*)

Đọc "Tiếc nuối hoa hồng" - du ký của Phan Quang (*)

Tôi dành trọn mấy ngày liền đọc tập du ký của nhà báo, nhà văn Phan Quang với 50 bài viết và phần Phụ lục trích cảm nhận của bạn đọc và đồng nghiệp về một số bài viết trong tập sách dày 690 trang khổ rộng (18x24cm) ấn loát công phu với tờ bìa có năm, sáu bông hồng trên nền xanh thắm bắt mắt.
Trái tim người mang nhịp đập khơi xa

Trái tim người mang nhịp đập khơi xa

Mang trong lòng những suy tư lớn về biển cả, Lữ Mai đến với Trường Sa đâu chỉ trong tâm thế của một người viết. Chị mang trong mình khao khát chạm đến thẳm sâu của đại dương, để biết dưới sóng bạc nước xanh kia cất giấu điều gì, tưởng tượng biển khơi nối bầu trời/ nằm trọn giữa lòng tay nhiệt đới, để hiểu trăng sáng quá cá bơi về cõi khác, để nhận ra chẳng cát nào nằm thở mãi đáy sâu. Trường ca Ngang qua bình minh (NXB Văn học, 2020) được chị khởi viết trong nguồn cảm hứng bất tận và sâu xa ấy. Điều ấn tượng là, đây là lần đầu Lữ Mai viết trường ca nhưng chị đã khẳng định mình ở một địa hạt mới cũng như cho thấy sự chuyên nghiệp của một người cầm bút khi dám dấn thân, dám thể nghiệm.
 

Sự nhắc nhớ, sự khỏa lấp linh thiêng

Sự nhắc nhớ, sự khỏa lấp linh thiêng

Cứ mỗi khi có nhà thơ nào ra mắt trường ca là tôi lại thấy thật đáng nể. Bởi lẽ, ngần ấy trang sách thơ, ngần ấy cảm xúc dồn nén được dịp bung tỏa dằng dặc. Chắc chắn có một điều then chốt là nhà thơ không thể không viết ra, không thể chỉ vài trang câu chữ cảm xúc thơ phú, không nói bâng quơ chung chung. Nhất định, chôn giấu trong lòng nhà thơ là những điều lớn lắm, ngấm ngầm len lỏi theo tháng năm. Và rồi đến lúc, mạch nguồn được tuôn ra như không thể kìm nén.

Ðỗ Quảng - người phá cách

Ðỗ Quảng - người phá cách

Phá cách là lối dùng chữ của nhà báo Ðỗ Quảng. Vào những năm 80-90 của thế kỷ trước khi tên tuổi Ðỗ Quảng đang nổi như cồn, tôi ướm hỏi ông rằng, theo anh thì điều gì làm nên sự thành công trong khi thực hiện các thiên phóng sự của mình? Phải gọi là “thiên phóng sự” là ở tầm vóc của nó, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bởi vì phóng sự của ông có khi dài tới 20 đến 30 nghìn chữ, đề cập đến chuyện xưa, chuyện nay, chuyện trong nước, chuyện thế giới, chuyện đời thực, chuyện tâm linh. Nhân vật trong tác phẩm thì đủ cả, từ nguyên thủ quốc gia tới người lao công, từ quan thượng thẩm đến bị cáo, từ giáo sư nổi danh đến bà bán xôi… xéo. Ðiều này khác với nhiều người.

Tranh minh họa đi kèm bài phê bình cuốn tiểu thuyết "Blonde" của nữ nhà văn Mỹ Joyce Carol Oatest đăng trên báo Le Monde ngày 20-10-2000.

100 bài đọc sách hay trên nhật báo Le Monde 75 năm qua

Nhật báo Le Monde (Thế giới) Pháp số ra ngày thứ bảy 21-9-2019 vừa qua đăng bài của ba tác giả Raphaelle Leyris, Jean Birnbaum và Florent Georgesco nhan đề: “100 cuốn tiểu thuyết từng mang đến nhiều phấn khích hơn cả cho báo Le Monde từ năm 1944 đến nay”, chọn và giới thiệu 100 bài phê bình sách văn học xuất sắc nhất đăng trên báo ấy 75 năm qua.

Cảm nhận lan man về một xứ sở hào hoa

Cảm nhận lan man về một xứ sở hào hoa

Tôi ngỡ ngàng và thích thú cầm cuốn sách Giáo sư Hà Minh Đức vừa gửi tặng: “Vẻ đẹp của một xứ sở hào hoa”, Triết luận (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2019). Hơn chục năm qua, khi đã đạt mốc tuổi trên dưới tám mươi, Giáo sư cho ra sách đều đều, cuốn nào cũng đẹp cũng có nhiều cái hay, cuốn này đọc chưa xong tôi đã được ông cho cuốn khác.

Ðọc Phan Quang viết về Bác Hồ

Ðọc Phan Quang viết về Bác Hồ

Tôi có hân hạnh được đọc và ghi mấy lời cảm nhận về một tập sách mới của nhà báo Phan Quang, tập sách Bác Hồ, người có nhiều duyên nợ với báo chí.

Mầu thanh xuân vẹn nguyên xúc cảm

Mầu thanh xuân vẹn nguyên xúc cảm

(Đọc tập thơ Xanh mãi - Nguyễn Hồng Vinh - NXB Văn học năm 2019)

Những khoảnh khắc thời gian với nhiều cung bậc cảm xúc được nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh chắt lọc, gửi gắm qua tập thơ “Xanh mãi” do Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành. Trong tập thơ thứ tám của ông, người đọc yêu mến văn chương thêm một lần cùng tác giả chiêm nghiệm về tình yêu, cuộc đời và niềm tự hào dân tộc Việt Nam ta.

Trên con đường ấy, Trường Sơn

Trên con đường ấy, Trường Sơn

Gần 30 năm trước, tôi cùng nhà thơ Lê Quang Trang đi dọc các tỉnh miền nam để viết bài cho số báo đặc biệt kỷ niệm 15 năm Ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Hồi đó, công chúng còn yêu thơ ca nhiều lắm, ở đâu chúng tôi cũng được yêu cầu đọc thơ. Hồi đó, anh Trang mới viết xong bài Tro tàn quá khứ. Bài thơ chỉ có hai khổ:

Dấu ấn tâm hồn Nguyễn Hồng Vinh

Dấu ấn tâm hồn Nguyễn Hồng Vinh

Ngay trong những ngày đầu tháng 6-2018, tháng có sự kiện của những người làm báo - Ngày báo chí cách mạng Việt Nam (21-6), tôi có trong tay cuốn sách khá dày dặn, hơn 430 trang in, Thơ và dấu ấn cuộc đời của nhà báo - nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh. Đây là tác phẩm văn học, báo chí mà ông coi “để kỷ niệm tròn 50 năm làm báo”, một sự nghiệp báo chí bền bỉ, trải nghiệm nhiều thử thách, nhất là làm báo trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ông đã không ngừng vươn tới, trưởng thành, dù ở lĩnh vực nào của người viết, dù ở hoàn cảnh, vị trí công tác nào, khi ông nhận nhiệm vụ quản lý các ấn phẩm của tờ nhật báo lớn nhất nước,

Hai mặt của sách truyền cảm hứng

Hai mặt của sách truyền cảm hứng

Trên kệ sách xuất hiện ngày một nhiều những cuốn sách truyền cảm hứng sống tới bạn đọc. Không phải vô lý mà bạn đọc săn lùng dòng sách này, tuy nhiên, cũng không ít cuốn ẩn chứa những thông điệp KHÔNG DỄ TIẾP NHẬN ÐẦY ÐỦ do tác giả từng là những thân phận sóng gió.

Trần Phương Trà nặng lòng với Huế

Trần Phương Trà nặng lòng với Huế

Nhà báo, nhà thơ Trần Phương Trà (Trần Nguyên Vấn) là một người Huế, rất Huế. Anh sinh ra ở Huế, tuổi thiếu niên học Trường Quốc học Huế, đất nước bị chia cắt cùng nhiều người bạn Huế ra Bắc học Trường Huỳnh Thúc Kháng, rồi vào Khoa Ngữ văn Ðại học Tổng hợp Hà Nội - toàn những vườn ươm và lò đào tạo nhân tài. Năm 1967, cùng một số bạn trở về quê Huế công tác, những ngày trước và sau Tết Mậu Thân 1968, nhiều lần hứng chịu đạn bom B52 Mỹ, vừa chui ra khỏi hầm bị đánh sập, còn ngạt thở vẫn í ới gọi nhau xem anh em ai còn ai mất. Một người như vậy, làm sao không "nặng lòng với Huế!".