Kiến thiết với tâm thế mới

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số kiến trúc sư làm việc ở những lĩnh vực chuyên môn khác nhau, từ quy hoạch tổng thể cùng xây dựng hệ thống lý thuyết mang giá trị nền tảng, tới thực hành thiết kế kiến trúc.

Không gian bên trong Túp House (tỉnh Thanh Hóa) thoáng mát, gọn gàng, hòa hợp thiên nhiên.
Không gian bên trong Túp House (tỉnh Thanh Hóa) thoáng mát, gọn gàng, hòa hợp thiên nhiên.

Điều thú vị là, họ đều đề cập đến sự cân bằng, hài hòa giữa nhiều yếu tố vật chất và tinh thần của tất cả các bên liên quan để có được một không gian đáng sống.

KTS Nguyễn Luận: "Sợi chỉ đỏ" xuyên suốt là cân bằng sinh thái

chu-luan.jpg
KTS Nguyễn Luận.

Năm 1979, đồ án của tôi, "Nhà ở nông thôn: đơn vị cân bằng sinh thái", đã đạt Giải nhất Cuộc thi Kiến trúc Quốc tế do Hiệp hội hợp tác văn hóa và kỹ thuật (ACCT) và UNESCO tổ chức tại Paris, Pháp. Thời điểm ấy, ở nước ta, khái niệm sinh thái hay cân bằng sinh thái chưa được mấy ai quan tâm, còn bị coi là rất khó hiểu chứ không phải phổ biến như bây giờ.

Lý thuyết trong đồ án này, thật ra, một phần được gợi ý từ chính cách sống của người dân ở nông thôn. Trong một chuyến đi thực tế ở vùng Sài Sơn (nay thuộc thành phố Hà Nội), tôi rất ấn tượng về hai khu vườn gia đình. Trong đó, có một khu vườn gồm ba tầng cây, thấp nhất là rau trồng theo luống, tầng giữa là các cây cần giàn leo, như mướp, bầu, tầng cao nhất là nhiều loại cây ăn quả. Bà lão chủ nhà sống một mình, các con cháu đi công tác xa. Cách sống và chăm sóc vườn cây, rau của bà cụ khiến tôi suy nghĩ nhiều. Đây chính là gợi ý cho khái niệm “sinh khối”, tức là làm thế nào để trong một mét vuông đất, có nhiều cây xanh nhất. Từ thực tế đó, kết hợp với những lý thuyết cơ bản về sinh thái học mà tôi có dịp nghiên cứu từ khi du học ở Cu Ba về kiến trúc (năm 1967-1972), tôi đã xây dựng hệ lý thuyết về nhà ở sinh thái hiện đại cho nông thôn Việt Nam. Theo đó, có hai điểm cốt lõi: chuỗi thức ăn chính và sinh khối với sợi chỉ đỏ xuyên suốt là cân bằng sinh thái.

Trong một khuôn viên nhà ở nông thôn, lý tưởng nhất là có vườn trồng rau, hoa quả, có ao thả cá và lấy nước tưới cây, có chuồng nuôi gia súc, gia cầm và hầm biogas để tạo khí đốt cho bếp. Nói cách khác, đó là vòng tuần hoàn sinh thái, cân bằng, triệt để tận dụng mọi nguồn hữu cơ cho sinh hoạt thường nhật. Song, tùy thuộc nhu cầu cụ thể, các hộ gia đình ở nông thôn áp dụng mô hình này theo cách của họ: Có thể có vườn và chuồng hoặc ao, tức là không đầy đủ cả chuỗi, song phổ biến nhất chính là sản phẩm đầu cuối: hầm biogas, với nguyên liệu hữu cơ không nhất thiết từ vườn chuồng của gia đình, mà có thể thu gom trong làng.

Đến nay, những biến đổi trong đời sống nông thôn đòi hỏi có những sự thay đổi trong nhận thức về thiết kế quy hoạch từ tổng thể đến chi tiết kiến trúc, đem tới nhiều cơ hội phát triển cho khu vực cư trú này.

Tôi cho rằng, văn hóa làng với cấu trúc của một ngôi làng sẽ luôn được bồi đắp. Cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình, những khuôn viên nhà thờ họ tộc là các chỉ dấu kiến trúc trong không gian văn hóa làng, văn hóa dòng tộc, không bao giờ mất đi được, tuy hình thức của một ngôi làng có thể thay đổi theo thời gian- điều hiển nhiên trong dòng chảy chung của sự phát triển xã hội. Trước xu thế chung, cần tìm cách để văn hóa làng và văn minh đô thị được cân bằng với nhau, hạn chế được tối đa những mặt trái của văn minh đô thị.

Một người nông dân hiện giờ đã có thể trở thành một streamer bán hàng trực tuyến-dấu hiệu của toàn cầu hóa, tức là họ vừa là người sản xuất, đầu tư sản xuất, vừa là người kinh doanh. Khi ấy, cách sống của họ chắc chắn sẽ khác với cách sống của một nông dân thuần túy “con trâu đi trước, cái cày theo sau” như trước kia. Một khuôn viên nhà ở nông thôn hiện giờ và trong tương lai có thể có vườn nhỏ hơn, không còn chuồng nuôi gia súc, gia cầm. Ao trong khuôn viên một gia đình hiếm dần… Một ngôi làng sẽ có nhiều nhà cao tầng hơn. Bể và bếp biogas có thể không còn phù hợp nhiều hộ gia đình, thay vào đó là bếp gas, bếp điện… Chính vì vậy, cần có một tầm nhìn chiến lược cho quy hoạch ở vùng nông thôn, hướng đến sự phát triển chất lượng cuộc sống đúng nghĩa cho người dân, thay vì chỉ chú trọng đến diện mạo từng ngôi nhà đơn lẻ.

Để một làng, một xã trong bối cảnh hiện nay có điều kiện tự chủ phát triển, cũng cần có các quy hoạch tổng thể tiến bộ hơn. Tôi lấy thí dụ, tùy vào hoàn cảnh cụ thể, một đơn vị xã có thể tự chủ về quỹ đất cho khu công nghiệp để thúc đẩy cơ khí sửa chữa, chế tạo, chế biến sâu sản phẩm nông-lâm-ngư nghiệp và xử lý rác thải, cho thương mại dịch vụ để không chỉ phục vụ cư dân trên địa bàn mà còn hướng đến phát triển du lịch, kinh doanh bất động sản, tạo nguồn thu cho địa phương. Mà đã có công nghiệp, thương mại dịch vụ tức là có văn minh đô thị.

KTS Lê Minh Hoàng: Tiếp nhận, lắng nghe minh triết của cộng đồng

hoang-le-1.jpg
KTS Lê Minh Hoàng.

Một số công trình công cộng do tôi và cộng sự thực hiện là thử nghiệm kiến trúc được phát triển, gợi cảm hứng từ nhiều đặc trưng văn hóa truyền thống của Việt Nam và phù hợp không gian văn hóa bao quanh. Có thể kể đến các hạng mục công trình với màu mộc mạc của vật liệu gạch, ngói, gỗ tại một giáo phận thuộc tỉnh Ninh Bình hiện nay; Trung tâm thông tin bên trong khuôn viên Nhà thờ Lớn Hà Nội (giải Bạc- Giải thưởng Kiến trúc quốc gia năm 2020-2021, thể loại kiến trúc công cộng); Nhà thông tin bên trong Nhà thờ Hàm Long, Hà Nội...

Qua thời gian sử dụng, những thử nghiệm này được kiểm chứng thực tế đủ lâu, từ độ bền vững về mặt vật lý (dưới tác động của khí hậu, thời tiết cực đoan, việc sử dụng của con người...) tới tâm lý đón nhận của cộng đồng. Công trình đứng vững qua các đợt bão lớn trong hai năm qua, sức bền của vật liệu, cách nhiệt và thông thoáng tốt, đặc biệt là chi phí và giải pháp bảo dưỡng quen thuộc, hợp lý có lẽ là những điểm tiên quyết thuyết phục cộng đồng người thụ hưởng kiến trúc. Việc được tin tưởng và giao nhiệm vụ thực hiện các đồ án khác của cộng đồng có lẽ là minh chứng lớn cho khả năng nhân rộng thực hành này. Tuy nhiên, điều tôi muốn đề cập thêm là gần đây, cộng đồng địa phương thậm chí còn chia sẻ với tôi về một số đồ án khác mà họ tự thực hiện theo phương thức tương tự cách chúng tôi đã giới thiệu và thực hiện cùng họ. Một thực thể kiến trúc không cần kiến trúc sư thật sự, nhưng khả dụng và hài hòa với tổng thể mà tôi đã quy hoạch và kiến tạo. Về khía cạnh tâm lý, quá trình “dân gian hóa kiến trúc được thiết kế” là minh chứng khác cho sự đón nhận của cộng đồng đối với những thử nghiệm như thế này, dù ban đầu, thật sự là rất khó để đặt được những “viên gạch đầu tiên” ở làng quê Bắc Bộ…

Một trong các tiêu chí quan trọng của kiến trúc có tính cộng đồng là cộng đồng tham gia trực tiếp trong quá trình kiến tạo, vận hành và sử dụng thay vì thuần túy tiếp nhận bàn giao từ một tổ chức nào đó và thụ hưởng. Trong trường hợp này “công nghệ” được lan tỏa và chuyển giao thật sự hiệu quả từ kiến trúc sư đến cộng đồng.

Trong thực hành kiến trúc, việc thuyết phục chủ đầu tư chấp nhận thử nghiệm của kiến trúc sư là cả một quá trình, đặc biệt với các cộng đồng và làng xã truyền thống Bắc Bộ có nếp nghĩ tưởng chừng bất biến qua nhiều thế hệ. Tâm thế của kiến trúc sư trong hoàn cảnh này có thể là tiếp nhận thay vì giáo dục, “truyền bá” về nhận thức kiến trúc mà mình tự cho là mới, là đúng đắn. Thực tế, cộng đồng địa phương có minh triết của họ và kiến trúc sư chỉ nhận thấy khi giao tiếp đủ sâu với họ. Tiếp nhận không có nghĩa là thỏa hiệp hoàn toàn mà là để cân nhắc về giải pháp phù hợp.

KTS Hà Đức Cương: Một căn nhà hài hòa với thiên nhiên, khí hậu

anh-chan-dung-2-ha-duc-cuong-1.jpg
KTS Hà Đức Cương.

Thiết kế ngôi nhà Túp (Túp House) của tôi, xây dựng tại ngôi làng của đồng bào người Thái ở vùng núi phía tây tỉnh Thanh Hóa đã được trao giải Bạc- Giải thưởng kiến trúc quốc gia năm 2024-2025, hạng mục Nhà ở.

Để thuyết phục chủ đầu tư thuận theo đề xuất thiết kế ngôi nhà này, tôi đã dành thời gian tìm hiểu đời sống và nhu cầu của chủ nhà cũng như cộng đồng dân cư chung quanh. Tôi chuẩn bị kỹ lưỡng về thông tin thiết kế cũng như cách trình bày, giải thích cho chủ nhà về mục đích, ý nghĩa của thiết kế, lắng nghe các ý kiến từ chủ nhà và gắn bó với họ theo mọi giai đoạn, từ thiết kế, thi công tới hoàn thiện.

Do xây dựng với chi phí hạn hẹp, công trình gặp nhiều khó khăn về vốn và phải trải qua hơn 5 năm mới hoàn thành. Về cơ bản, công trình thể hiện được khoảng 90% nếu so với thiết kế ban đầu.

Trong quá trình sử dụng với điều kiện khí hậu thời tiết có phần cực đoan, công trình chưa gặp vấn đề gì phức tạp để chủ nhà phải cải tạo sửa chữa lớn. Duy chỉ có phần sân vườn là được sửa sang lại để phù hợp hơn với cuộc sống của gia đình họ.

Từ thực tế của Túp House, tôi rút ra được nhiều quan điểm về thiết kế một căn nhà vừa vặn với thực tế không gian, như sau: tránh tác động quá lớn vào địa hình, địa thể mảnh đất xây nhà; đặt vị trí trong nhà sao cho ít phải chặt bỏ cây xanh, để nhà được nép mình vào màu xanh tự nhiên càng nhiều càng tốt; thiết kế hình thái mái nhà đóng vai trò quan trọng để che nắng và thông gió- chính là mái nhà sàn truyền thống đã được giữ lại cho căn nhà này; đồng thời vẫn giữ cho căn nhà có tinh thần rộng mở, luôn gắn bó với hàng xóm láng giềng; tạo cảm giác về tính đoàn tụ, gắn bó gia đình thông qua các thiết kế không gian nội thất rất mở, giúp duy trì cách sống như dưới mái nhà truyền thống (ở đây là nhà sàn) trong hình hài một kiến trúc hiện đại.

Tôi cho rằng, căn nhà nên là một nguồn cảm hứng để tiếp nối các giá trị truyền thống từ kiến trúc bản địa, đồng thời ứng xử hài hòa với thiên nhiên, khí hậu. Vì mỗi một công trình cũng như con người sinh ra, không ai giống ai, có tâm hồn và thể chất riêng, nhưng thái độ, đạo đức và tinh thần có thể lan tỏa cho những con người khác.

Có thể bạn quan tâm

Copenhagen còn được gọi là thành phố của xe đạp. (Nguồn Visitcopenhagen)

Xanh hóa đô thị: xu hướng tất yếu

Thực tế những năm gần đây, các biến động khí hậu cho thấy mô hình quy hoạch dựa vào bê-tông hóa, mở rộng đường sá và giao thông cơ giới đang bộc lộ giới hạn.

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.