Hóa giải những thách thức

Những mái nhà ngói ba gian hai chái nhuốm màu rêu phong lấp ló bên rặng tre làng và bờ ao biêng biếc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ đang ngày càng thưa vắng dần. Lũy tre và bờ ao bao quanh làng dần biến mất, nhường chỗ cho các con đường bê-tông dài rộng, các tòa nhà hai, ba tầng mái tôn theo kiểu dáng nhà mặt phố.

Mẫu nhà dành cho khu vực ngập lụt miền Tây Nam Bộ của nhóm thiết kế do KTS Nguyễn Quốc Hoàng chủ trì. (Nguồn: Tạp chí Kiến trúc)
Mẫu nhà dành cho khu vực ngập lụt miền Tây Nam Bộ của nhóm thiết kế do KTS Nguyễn Quốc Hoàng chủ trì. (Nguồn: Tạp chí Kiến trúc)

Đây là một trong số nhiều biểu hiện của sự dịch chuyển theo hướng đô thị hóa của diện mạo kiến trúc ở các vùng nông thôn Việt Nam. Một mặt, điều này là tất yếu trên tiến trình phát triển chung của xã hội. Mặt khác, nó cũng đặt ra những thử thách cho tầm nhìn quy hoạch và quản lý nông thôn, vừa bảo đảm kiến trúc cảnh quan vừa đáp ứng nhu cầu một cuộc sống tiện nghi, văn minh của người dân.

Chú trọng bản sắc vùng miền trong các gợi ý thiết kế mới

Đặc trưng địa lý và bản sắc văn hóa tộc người đem lại cho khu vực nông thôn Việt Nam sự phong phú, đa dạng về không gian kiến trúc. Trải dài theo dáng hình đất nước, ở mỗi vùng miền đều có những “mã” diện mạo riêng được giữ gìn và bồi đắp bởi cộng đồng cư dân sở tại.

Tuy nhiên, làn sóng đổi mới phát triển kinh tế- xã hội kể từ cuối những năm 1980 đã tác động mạnh mẽ tới từng “mã” diện mạo ấy. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, sự xuất hiện với tần suất ngày càng cao của những hình thái thời tiết cực đoan, cùng nhiều tác động tiêu cực từ chủ quan con người (nạn phá rừng, hoạt động thủy điện, sản xuất công nghiệp vừa và nhỏ gây ô nhiễm môi trường)…, tất cả từng ngày dẫn đến sự đổi thay của cảnh quan nông thôn.

Trước thực tế ấy, nhằm đóng góp tích cực vào việc vừa bảo vệ vừa phát huy các giá trị kiến trúc truyền thống, trong hai năm 1997-1998, Quỹ Phát triển văn hóa Việt Nam-Thụy Điển đã tổ chức một cuộc thi thiết kế mẫu nhà ở cho nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Cuộc thi đặc biệt thu hút sự quan tâm của đông đảo kiến trúc sư trên cả nước. Mục tiêu chung của cuộc thi là tìm được các mẫu thiết kế có nghiên cứu và chắt lọc từ ngôi nhà truyền thống của làng quê Bắc Bộ đồng thời đáp ứng nhu cầu và điều kiện sống mới, hiện đại hơn. 10 mẫu nhà đã được chọn trao giải.

20 năm sau, năm 2019, dưới sự bảo trợ của Hội Kiến trúc sư Việt Nam, cuộc thi “Chung tay kiến tạo nhà ở nông thôn Việt Nam” do Tạp chí Kiến trúc và Diễn đàn Mái đẹp Nhà sang tổ chức cũng đã thu về 149 bài dự thi hợp lệ. Trong đó, chủ đề Nhà ở miền bắc có 54 bài; Nhà ở miền trung có 64 bài; Nhà ở miền Đông Nam Bộ có bốn bài và Nhà ở miền Tây Nam Bộ có 27 bài dự thi. 20 bài dự thi đã được chọn trao giải từ Ban giám khảo và Bình chọn của công chúng qua cổng thông tin chính thức của cuộc thi. Giải xuất sắc của Ban giám khảo đã được trao cho mẫu nhà dành cho khu vực ngập lụt miền Tây Nam Bộ của Nhóm thiết kế do KTS Nguyễn Quốc Hoàng chủ trì. Mẫu nhà được đánh giá là “khả thi và thích ứng cao với điều kiện tự nhiên, cũng như kế thừa tính bản sắc vùng miền”.

Bên cạnh đó, kể từ năm 2014 đến nay, hàng trăm mẫu nhà ở an toàn phòng, chống thiên tai do các địa phương và Viện Kiến trúc quốc gia cung cấp, có thể áp dụng xây dựng ngay, được công khai trên nhiều phương tiện truyền thông. Nhìn chung, các mẫu nhà này được thiết kế trên cơ sở nghiên cứu điều kiện tự nhiên, tập quán văn hóa, đặc điểm thiên tai tại khu vực chịu ảnh hưởng, đồng thời bảo đảm tuân thủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành.

Bài toán về tính kinh tế của vật liệu

Tuy nhiên, do chủ sở hữu nhà ở nông thôn là cá nhân hộ gia đình nên việc xây dựng một căn nhà hoàn toàn phụ thuộc vào sở nguyện và điều kiện kinh tế của họ.

Bài toán kinh tế luôn được đặt ra và cần được quan tâm trước tiên. Nó bao hàm sự bền vững của kết cấu, sự tiết kiệm thời gian trong xây dựng và bảo trì, bảo dưỡng, sự tiện ích của vật liệu. Dẫn chứng điển hình là từ hơn 30 năm trước, những căn nhà mái bằng một hoặc hai tầng trở nên phổ biến ở nông thôn Đồng bằng Bắc Bộ thay cho nhà mái ngói cấp bốn, vì theo lý giải của người dân, mái bằng được tận dụng thay cho sân phơi thóc lúa, khi sân nhà dần bị thu hẹp, lại có thể để chờ lên thêm tầng nhà nữa khi có điều kiện kinh tế tốt hơn, đông nhân khẩu hơn…

Nguyên vật liệu để làm nhà theo thể thức truyền thống ngày càng khan hiếm. Đơn cử, trước kia, ở hầu hết các ngôi làng vùng Đồng bằng Bắc Bộ đều có những lò gạch, dân làng tự cung tự cấp. Gỗ xoan và tre cũng nhiều, ao làng còn và kỹ thuật ngâm nước để chống mối mọt vẫn được lưu truyền. Nhưng theo thời gian, những vật liệu tưởng chừng giản dị ấy lại trở nên dần xa xỉ. Đã có một so sánh ý vị: Trước kia, nhà ngói ba gian hai chái để ở là bình thường thì nay, nó là mô hình căn nhà mà người có điều kiện kinh tế mới đủ khả năng đáp ứng, và chủ yếu là để làm nhà thờ tổ tiên, chi họ, dòng tộc… Căn nhà ở bình thường chủ yếu là nhà hai, ba tầng và bê-tông hóa, “mái tôn hóa”.

Một số kiến trúc sư, khi tham gia các chương trình thiết kế mẫu nhà ở cho nông thôn, đã chia sẻ với chúng tôi rằng, họ tự tin về việc có thể thiết kế được những mẫu nhà kết hợp hài hòa giữa yếu tố kiến trúc truyền thống với hiện đại và phù hợp điều kiện sống mới. Song, để các mẫu nhà thật sự được đi vào thực tế cuộc sống, lại cần có sự tham gia của nhiều bên khác, bắt đầu từ việc tạo dựng dây chuyền cung cấp nguyên vật liệu xây dựng phù hợp với chi phí phải chăng.

Kiến trúc cảnh quan nông thôn Việt Nam đã và đang đứng trước những thách thức trong việc bảo lưu, giữ gìn được nét đặc trưng truyền thống đồng thời trước không ít cơ hội để hình thành nên đặc trưng mới trong tương lai. Đây là lúc cần có sự chung tay của các cơ quan quản lý quy hoạch, nhà đầu tư, giới kiến trúc sư và cộng đồng cư dân để định hướng một không gian sống phù hợp cho tương lai của “làng mình”, “thôn, bản của mình”.

Có thể bạn quan tâm

Ảnh: Thành Đạt

Không gian sống cho tương lai

Diện mạo của từng ngôi làng, từng khu đô thị, từng địa phương, thành phố đã và đang trải qua nhiều biến đổi mạnh mẽ cùng tầm nhìn mới trong các quy hoạch cho tương lai.

Một dự án nhà ở xã hội tại Khu đô thị Pháp Vân-Tứ Hiệp (Hà Nội) bị chậm tiến độ.

Tiết kiệm, nhưng phải bảo đảm tiện nghi

Phát triển nhà ở xã hội bền vững, chất lượng với không gian sống tiết kiệm nhưng vẫn đầy đủ tiện nghi cho người có thu nhập thấp, không chỉ là yêu cầu cấp bách trước mắt mà còn hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền có chỗ ở của người dân.

Một hạng mục công trình công giáo với màu mộc mạc của vật liệu gạch, ngói, gỗ, do KTS Lê Minh Hoàng và cộng sự thiết kế, giám sát thi công.

Tái sinh những giá trị tinh thần cốt lõi

Để tiếp cận kiến trúc theo hướng bền vững, cần có sự tích hợp giữa tính toàn cầu và tính địa phương, nhằm tạo nên sự cân bằng ổn định trong bối cảnh hiện nay (*)

Copenhagen còn được gọi là thành phố của xe đạp. (Nguồn Visitcopenhagen)

Xanh hóa đô thị: xu hướng tất yếu

Thực tế những năm gần đây, các biến động khí hậu cho thấy mô hình quy hoạch dựa vào bê-tông hóa, mở rộng đường sá và giao thông cơ giới đang bộc lộ giới hạn.

Không gian bên trong Túp House (tỉnh Thanh Hóa) thoáng mát, gọn gàng, hòa hợp thiên nhiên.

Kiến thiết với tâm thế mới

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số kiến trúc sư làm việc ở những lĩnh vực chuyên môn khác nhau, từ quy hoạch tổng thể cùng xây dựng hệ thống lý thuyết mang giá trị nền tảng, tới thực hành thiết kế kiến trúc.

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.