Tái sinh những giá trị tinh thần cốt lõi

Để tiếp cận kiến trúc theo hướng bền vững, cần có sự tích hợp giữa tính toàn cầu và tính địa phương, nhằm tạo nên sự cân bằng ổn định trong bối cảnh hiện nay (*)

Một hạng mục công trình công giáo với màu mộc mạc của vật liệu gạch, ngói, gỗ, do KTS Lê Minh Hoàng và cộng sự thiết kế, giám sát thi công.
Một hạng mục công trình công giáo với màu mộc mạc của vật liệu gạch, ngói, gỗ, do KTS Lê Minh Hoàng và cộng sự thiết kế, giám sát thi công.

Không chỉ đáp ứng các yêu cầu mang tính vật chất kỹ thuật, kiến trúc còn phải phát huy được đặc trưng của địa điểm và văn hóa địa phương để tạo nên sự bền vững về mặt tinh thần cho con người - chủ thể của kiến trúc.

Năm 1987, Liên hợp quốc xác định: Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các nhu cầu của họ. Nói cách khác, đây là kết quả tổng hòa của ba mặt cơ bản: Bền vững về môi trường, kinh tế và xã hội. 40 năm sau, các mục tiêu phát triển bền vững (17 SDGs) của Liên hợp quốc vẫn xoay quanh ba nội dung này và đã được đưa vào chính sách vĩ mô của nhiều quốc gia.

1. Từ góc độ cá nhân, tôi quan tâm tới mục đích cốt lõi của phát triển bền vững là vì con người (ở hiện tại và cả tương lai) nên luôn coi trọng yếu tố văn hóa. Bởi, văn hóa có khả năng đóng góp mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường. Các giá trị và niềm tin của con người định hình mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên cũng như cách thức con người quản lý và tác động đến tự nhiên. Cùng với đó, tôi cho rằng, cần bổ sung yếu tố kỹ thuật và công nghệ với vai trò là công cụ để phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.

Các yếu tố xã hội, kinh tế, kỹ thuật đại diện cho xu thế toàn cầu hóa, hiện đại hóa. Hai yếu tố văn hóa và tự nhiên đại diện cho địa phương hóa. Toàn cầu hóa là không thể tránh khỏi song phải dựa trên sự tôn trọng các giá trị văn hóa thì mới bảo đảm ổn định xã hội, làm tiền đề cho sự phát triển bền vững.

Kiến trúc là thực thể trung gian giữa con người với văn hóa và tự nhiên, là sự hiện thực hóa mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá-xã hội. Kiến trúc là sản phẩm văn hóa đáp ứng nhu cầu của con người, nên nếu kiến trúc thuận theo tự nhiên thì sẽ giúp con người chung sống lâu dài với những yếu tố bất lợi, giảm thiểu nguy cơ và thiệt hại do thiên tai, đồng thời tiết kiệm chi phí xây dựng và vận hành.

Nói cách khác, văn hóa-kiến trúc-tự nhiên là một thể thống nhất, là triết lý dẫn đường trong hành trình nỗ lực bền bỉ nhằm tạo ra những nơi chốn nhân văn và bền vững cho người dân Việt Nam. Kiến trúc ở đây bao hàm không gian và hình dáng công trình, cấu trúc và vật liệu tạo nên nó. Triết lý này có thể giúp biến đổi những điều mà lâu nay vẫn bị coi là không thể/ khó khăn (trong thực tế cuộc sống cũng như trong suy nghĩ/ ý thức chung của xã hội) trở thành có thể/ có cơ hội trong thực hành kiến trúc, từ quy hoạch tổng thể, chi tiết đến kiến thiết từng đơn vị/thực thể công trình. Chính vì vậy, cần có những nhận thức rộng mở về cả ba yếu tố tạo nên triết lý bền vững trong kiến trúc hôm nay.

Thứ nhất, văn hóa là sự phản ánh con người, với những nhu cầu đa dạng, với các điều kiện kinh tế-xã hội của các tầng lớp khác nhau trong xã hội.

Thứ hai, tự nhiên là để chung sống chứ không phải để chinh phục. Thiên nhiên không phải là phần thừa kế ông bà để lại cho chúng ta hưởng thụ mà là chúng ta đang vay mượn của con cháu tương lai.

Cuối cùng, kiến trúc cần có trách nhiệm với môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa-xã hội. Mỗi yếu tố cấu thành thực thể kiến trúc đều có sự liên hệ với đồng thời văn hóa và tự nhiên của nơi bao chứa nó. Bởi vậy, vật liệu thân thiện để tạo dựng những cấu trúc nhân tạo theo cách tự nhiên, để tổ chức những không gian thiết yếu cho con người, với những hình thể hữu cơ, sống động là một lựa chọn ý nghĩa cho kiến trúc bền vững.

2. Trong kiến trúc, vật liệu thân thiện là những vật liệu dễ khai thác, sẵn có ở địa phương, như vật liệu tự nhiên với đất, đá, tre, gỗ... Chúng là vật liệu truyền thống, quen thuộc với cư dân, đem lại cho họ cảm nhận dễ chịu, gần gũi với thực thể kiến trúc dù có thể nó được thiết kế với tầm nhìn, tri thức mới của kiến trúc sư. Những vật liệu tái chế từ sắt, giàn giáo, chai nhựa cũng có thể được sử dụng theo cách thức mới mẻ, nhằm nới rộng biên độ trong thực hành kiến trúc và tạo nên diện mạo đặc trưng, giàu có về tinh thần tuy có thể hạn chế về điều kiện vật chất. Với quan niệm dùng vật liệu này, cư dân sở tại có cơ hội tham gia hành trình kiến tạo kiến trúc “cho mình” và cho cộng đồng, bên cạnh vai trò của kiến trúc sư, ngay từ bước lập dự án và thiết kế kiến trúc, trong giai đoạn xây dựng, và cả khi sửa chữa, cải tạo, nâng cấp trong quá trình sử dụng.

2. Trong kiến trúc, vật liệu thân thiện là những vật liệu dễ khai thác, sẵn có ở địa phương, như vật liệu tự nhiên với đất, đá, tre, gỗ... Chúng là vật liệu truyền thống, quen thuộc với cư dân, đem lại cho họ cảm nhận dễ chịu, gần gũi với thực thể kiến trúc dù có thể nó được thiết kế với tầm nhìn, tri thức mới của kiến trúc sư. Những vật liệu tái chế từ sắt, giàn giáo, chai nhựa cũng có thể được sử dụng theo cách thức mới mẻ, nhằm nới rộng biên độ trong thực hành kiến trúc và tạo nên diện mạo đặc trưng, giàu có về tinh thần tuy có thể hạn chế về điều kiện vật chất. Với quan niệm dùng vật liệu này, cư dân sở tại có cơ hội tham gia hành trình kiến tạo kiến trúc “cho mình” và cho cộng đồng, bên cạnh vai trò của kiến trúc sư, ngay từ bước lập dự án và thiết kế kiến trúc, trong giai đoạn xây dựng, và cả khi sửa chữa, cải tạo, nâng cấp trong quá trình sử dụng.

c-doan-thanh-ha-5.jpg
Một góc không gian thân thiện BE, tỉnh Quảng Ninh (Nguồn: HPA)

Tôi nhớ lại quá trình xây dựng Không gian thân thiện BE, tại tỉnh Quảng Ninh, khoảng 10 năm trước. Vốn yêu thích các chất liệu tự nhiên và hiểu biết sâu sắc về sản vật địa phương, chủ đầu tư mong muốn xây dựng một không gian nhà hàng có thể thể hiện được rõ nét đặc trưng địa phương. Ở nơi đó, khách không chỉ được thưởng thức các món ăn địa phương ngon lành mà còn thật sự được thư giãn. Chúng tôi đã lựa chọn đất và tre là hai vật liệu chính yếu, vốn sẵn có ở địa phương. Tổng thể công trình là một bức tường trình bằng đất, dài khoảng 80m, theo hình zigzag, tạo nên các không gian khác nhau, nhập nhằng giữa chia cách và hợp nhất/hòa đồng. Tại mỗi không gian như vậy, không có vách ngăn để phân định ranh giới giữa bên trong (có mái) và bên ngoài (có cây), giữa nội thất (để sử dụng) và ngoại thất (để nhìn ngắm). Các khu vực sử dụng được liên thông với nhau qua những khoảng trống so le; hệ mái trên cao cũng không trùng khớp với mặt sàn bên dưới. Đất được xử lý một cách khoa học, nghiền mịn, trộn phụ gia và đầm kỹ bằng máy để tăng độ cứng và khả năng chịu nước. Do đó, việc thi công dễ dàng hơn nhiều lần so phương pháp thủ công. Những cây tre làm mái được xếp thành hai lớp dày, có khoảng đệm để vừa giảm bức xạ nhiệt vừa góp phần điều tiết ánh sáng…

Không gian thân thiện BE được thiết kế với tinh thần phối hợp với tự nhiên, ứng xử hài hòa và thích ứng với địa điểm đồng thời phần nào có thể tái hiện tự nhiên, theo nghĩa gợi ấn tượng, cảm xúc về thiên nhiên, phát triển và tiếp nối tinh thần của tự nhiên. Trong một không gian như vậy, con người và vật liệu đều như cùng được thở, trở nên thân thiện với nhau, dễ chịu bên nhau.

Trong hơn 15 năm thực hành thiết kế các công trình dân sinh cũng như nghiên cứu, viết về kiến trúc kể từ năm 2009 đến nay, tôi luôn hướng đến các yếu tố bền vững trong công việc của mình. Các quan điểm thiết kế của tôi đều tuân thủ một số nguyên tắc xuyên suốt: Kiến trúc bền vững là một sự kiến tạo bền vững, không phải đột phá, đột biến mà là đổi mới cái đang có, chuyển hóa từng bước để tạo nên sự thay đổi tích cực và có sự tiếp nối về văn hóa; kiến trúc bền vững không phải là bất biến mà có khả năng thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của môi trường, sự phát triển của xã hội và sự đa dạng nhu cầu của con người và cộng đồng.

Bản chất kiến trúc là sự tổng hòa các mặt đối lập. Vì thế, kiến trúc bền vững cần phát huy được những mối liên hệ đa chiều, đa lĩnh vực, tạo ra những cơ hội phát triển đa dạng, cộng sinh đa ngành nghề cho con người. Đặc biệt, kiến trúc bền vững tạo cơ hội cho sự hồi sinh những truyền thống tốt đẹp của cộng đồng, mở ra khả năng tái thiết lập sự cân bằng ổn định cho xã hội, tái sinh những giá trị tinh thần cốt lõi của con người.

(*) Bài viết có sự tham khảo các nhận định, ý kiến của hai TS, KTS Trần Quốc Thái và Nguyễn Trí Thành.

Có thể bạn quan tâm

Ảnh: Thành Đạt

Không gian sống cho tương lai

Diện mạo của từng ngôi làng, từng khu đô thị, từng địa phương, thành phố đã và đang trải qua nhiều biến đổi mạnh mẽ cùng tầm nhìn mới trong các quy hoạch cho tương lai.

Một dự án nhà ở xã hội tại Khu đô thị Pháp Vân-Tứ Hiệp (Hà Nội) bị chậm tiến độ.

Tiết kiệm, nhưng phải bảo đảm tiện nghi

Phát triển nhà ở xã hội bền vững, chất lượng với không gian sống tiết kiệm nhưng vẫn đầy đủ tiện nghi cho người có thu nhập thấp, không chỉ là yêu cầu cấp bách trước mắt mà còn hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền có chỗ ở của người dân.

Copenhagen còn được gọi là thành phố của xe đạp. (Nguồn Visitcopenhagen)

Xanh hóa đô thị: xu hướng tất yếu

Thực tế những năm gần đây, các biến động khí hậu cho thấy mô hình quy hoạch dựa vào bê-tông hóa, mở rộng đường sá và giao thông cơ giới đang bộc lộ giới hạn.

Mẫu nhà dành cho khu vực ngập lụt miền Tây Nam Bộ của nhóm thiết kế do KTS Nguyễn Quốc Hoàng chủ trì. (Nguồn: Tạp chí Kiến trúc)

Hóa giải những thách thức

Những mái nhà ngói ba gian hai chái nhuốm màu rêu phong lấp ló bên rặng tre làng và bờ ao biêng biếc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ đang ngày càng thưa vắng dần. Lũy tre và bờ ao bao quanh làng dần biến mất, nhường chỗ cho các con đường bê-tông dài rộng, các tòa nhà hai, ba tầng mái tôn theo kiểu dáng nhà mặt phố.

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.