Hướng đi tất yếu

Trong bối cảnh nhu cầu năng lượng tăng nhanh và thách thức biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, các chuyên gia nhấn mạnh: Chỉ bằng cách đầu tư vào công nghệ xanh, phát triển nguồn nhân lực, cũng như nỗ lực hoàn thiện thể chế, Việt Nam mới có thể giữ vững an ninh năng lượng và tiến tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Năng lượng nguyên tử Việt Nam
TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Năng lượng nguyên tử Việt Nam

TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Nhân lực là "chìa khóa" phát triển điện hạt nhân

Điện hạt nhân là nguồn năng lượng cần thiết cho Việt Nam trong tương lai, giúp thúc đẩy phát triển khoa học kỹ thuật, công nghiệp. Đặc biệt, nguồn năng lượng này không phát thải CO2, góp phần tăng trưởng phát triển xanh, bền vững.

Tôi cho rằng nhân lực là "chìa khóa" để phát triển điện hạt nhân thành công, hiệu quả và bền vững. Vấn đề an toàn điện hạt nhân cũng chủ yếu liên quan đến yếu tố con người. Trong đó, vấn đề nhân lực hạt nhân gồm ba mảng chính.

Thứ nhất, nhân lực làm việc tại các nhà máy là đội ngũ được đào tạo đại học và đào tạo các khóa chuyên ngành sau đại học, huấn luyện. Thường phải mất khoảng 10 năm mới có một đội ngũ nhân lực vận hành lò. Nhiệm vụ này chúng ta sẽ giải quyết cùng các đối tác, tận dụng tối đa năng lực và điều kiện đào tạo trong nước đang có hiện nay.

Thứ hai, nguồn nhân lực nghiên cứu triển khai gồm các chuyên gia hàng đầu hiểu biết về công nghệ và an toàn hạt nhân. Đây là đội ngũ cần được triển khai lâu dài, đi theo chương trình điện hạt nhân, tuy nhiên chưa cấp bách như nhóm nhân lực phía trên.

Thứ ba, nhân lực của cơ quan pháp quy về hạt nhân. Ở các nước phát triển, đội ngũ này thường được lựa chọn từ các nhà máy, chủ đầu tư dự án, hay nhân lực trong quá trình triển khai nghiên cứu, ứng dụng, những cán bộ đã có nhiều kiến thức, kinh nghiệm triển khai thực tế, nắm chắc luật pháp để có thể theo dõi, giám sát thực hiện an toàn.

Để có được các nguồn nhân lực này, tôi cho rằng, một chương trình chung tổng thể quốc gia, quy định rõ ràng cụ thể là rất quan trọng. Việc đào tạo nguồn nhân lực phải kết hợp cả đào tạo trong nước và nước ngoài. Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm đào tạo nhân lực từ các nước đang phát triển mạnh mẽ điện hạt nhân, các nước vừa mới xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

Bên cạnh đó, Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt hạ tầng pháp quy hạt nhân… Những thách thức khác của điện hạt nhân như vốn đầu tư lớn, hay chất thải phóng xạ, chúng ta sẽ tìm lời giải cùng với các đối tác và theo kinh nghiệm của các nước đã có điện hạt nhân ■

5-2-5713.jpg

PGS, TS Trần Đình Phong, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH), Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Thách thức trong triển khai công nghệ hydro ở Việt Nam

Quá trình phát triển công nghệ hydro ở Việt Nam gặp phải năm thách thức chính: Cộng đồng nghiên cứu mỏng và thiếu liên kết nội địa; Câu chuyện chảy máu chất xám; Cơ sở hạ tầng nghiên cứu còn yếu; Thiếu chương trình nghiên cứu quốc gia quy mô lớn; Các doanh nghiệp trong nước còn đứng ngoài cuộc.

Tự chủ công nghệ năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng hydro không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn là câu chuyện tầm nhìn, con người, hệ sinh thái và sự đồng hành. Nếu chúng ta hành động từ hôm nay, dù chỉ với những bước nhỏ, tương lai hydro tại Việt Nam hoàn toàn có thể là câu chuyện không còn quá xa vời. Nếu không đầu tư từ bây giờ, đến khi công nghệ hydro chín muồi, Việt Nam sẽ lại rơi vào thế bị động và chỉ còn lựa chọn duy nhất là mua công nghệ từ nước ngoài.

Hiện tại, nhóm chúng tôi tại USTH chỉ có bảy nhà nghiên cứu, hai nghiên cứu sau tiến sĩ và bốn nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, điều chúng tôi tự hào là trong 10 năm qua đã giới thiệu hơn 40 bạn trẻ tài năng đi đào tạo tiến sĩ tại nước ngoài, trong đó phần lớn được đào tạo trong lĩnh vực năng lượng hydro, khử CO2. Đây là đội ngũ có thể huy động để tham gia một chương trình nghiên cứu, phát triển công nghệ năng lượng hydro tham vọng trong nước.

Chúng tôi cũng đang triển khai một dự án hợp tác quốc tế phát triển năng lượng hydro xanh, được Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS) tài trợ giai đoạn 2025-2029. Mục tiêu là phát triển nghiên cứu, đào tạo nhân lực, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đến năm 2029 có thể thành lập một phòng thí nghiệm hỗn hợp quốc tế tại Việt Nam chuyên sâu về hydro.

53-2621.jpg

TS Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

Chuyển dịch năng lượng - nhu cầu bức thiết

Tháng 4, Thủ tướng Chính phủ đã thông qua Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, trong đó đặt mục tiêu đầy tham vọng: Tỷ lệ năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) đạt 28-36% vào năm 2030 và 74-75% vào năm 2050. Để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo và các công nghệ năng lượng mới, chúng ta cần xem xét năm nội dung trọng tâm.

Thứ nhất, về phát triển năng lượng tái tạo: Cần tập trung khai thác có hiệu quả tiềm năng về năng lượng tái tạo trong nước (như điện gió, điện mặt trời, và điện sinh khối); thu hút đầu tư tư nhân và quốc tế thông qua cơ chế ưu đãi, minh bạch, phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước trong từng thời kỳ.

Thứ hai, về công nghệ năng lượng tương lai: Cần nghiên cứu ứng dụng hydro xanh, amoniac xanh, hệ thống lưu trữ năng lượng (pin, thủy điện tích năng), và công nghệ thu giữ carbon (CCS). Cùng với đó là ứng dụng năng lượng nguyên tử, phát triển điện hạt nhân.

Thứ ba, về lưới điện thông minh: Cần hiện đại hóa lưới điện, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số để vận hành hiệu quả khi tích hợp số lượng lớn các nguồn năng lượng tái tạo. Nghị quyết số 57-NQ/TW là cơ sở chính trị quan trọng để thúc đẩy phát triển nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực năng lượng một cách toàn diện, trong các khâu của chuỗi cung ứng, dịch vụ.

Thứ tư, về hoàn thiện thể chế: Tiếp tục tháo gỡ "điểm nghẽn" trong cơ chế giá điện, ưu đãi đầu tư, và tài chính xanh.

Thứ năm, phát triển hệ sinh thái công nghiệp năng lượng, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực năng lượng, nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước nhằm nội địa hóa và giảm chi phí sản xuất, tiến tới làm chủ công nghệ và dần hướng tới xuất khẩu công nghệ.

5-7825.jpg

TS Nguyễn Quân, Nguyên Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ, Chủ tịch Hội tự động hóa Việt Nam

Tư duy chiến lược trong hoạch định chính sách

Trong bối cảnh năng lượng mới đang phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cần một cách tiếp cận khoa học, tổng thể, và có tầm nhìn dài hạn trong việc xây dựng chính sách năng lượng. Chúng ta cần có sự kết hợp hài hòa giữa việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế và phát huy nội lực trong nước.

Việt Nam nên chủ động tiếp cận các cơ quan quản lý nhà nước về năng lượng và các nhà khoa học hàng đầu tại các quốc gia phát triển, qua đó học hỏi những bài học thành công và nhận được sự tư vấn quý báu từ các "kiến trúc sư trưởng" của những dự án năng lượng lớn.

Khi xây dựng cơ chế chính sách, chúng ta cần phải lắng nghe ý kiến các nhà khoa học, chuyên gia và doanh nghiệp. Đây chính là mối liên kết ba nhà: nhà nước - nhà khoa học và nhà doanh nghiệp ■

22.jpg

Ông Trần Khánh Việt Dũng, Giám đốc HDF Energy tại Việt Nam

Cần những giải pháp đồng bộ và cụ thể

Việt Nam là quốc gia sở hữu tiềm năng to lớn về năng lượng tái tạo, từ điện gió, điện mặt trời cho tới gần đây là hydrogen. Tuy nhiên, việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo vào hệ thống điện hiện hữu đòi hỏi phải có một cơ chế dự phòng linh hoạt, đủ mạnh để xử lý tính bất định của nguồn phát. Với khả năng lưu trữ lớn và phát điện thông qua pin nhiên liệu vào thời điểm cần thiết, hydrogen không chỉ giúp cân bằng cung - cầu năng lượng mà còn góp phần ổn định toàn bộ hệ thống điện.

Đây là một lĩnh vực hoàn toàn mới không chỉ tại Việt Nam mà còn với cả thế giới. Do đó, hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ mang tính "kích hoạt ban đầu" là vô cùng cần thiết nếu chúng ta thật sự muốn tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững về sau.

Với vai trò là một nhà đầu tư đang triển khai các dự án hydrogen, tôi nhận thấy thách thức lớn nhất hiện nay chính là thiếu các chính sách đồng bộ, thiếu sự thống nhất trong hướng dẫn và hỗ trợ giữa cấp Trung ương và địa phương. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ và hiệu quả đầu tư.

Tôi ghi nhận rằng Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có chiến lược hành động, định hướng dài hạn cho phát triển năng lượng mới. Tuy nhiên, với tư cách là nhà đầu tư, tôi kỳ vọng vào những chính sách cụ thể liên quan đến đất đai, cơ chế mua bán điện, có thể triển khai trực tiếp từ Trung ương đến địa phương, phù hợp với thực tiễn triển khai các dự án...■

Có thể bạn quan tâm

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.