Góp phần hoàn thiện, đồng bộ thể chế phát triển đất nước

Một trong những đổi mới quan trọng của dự án luật sửa đổi Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69/2014/QH13) chính là việc hình thành các quy định về phương pháp phân tích, đánh giá định lượng hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đó là khẳng định của bà Phạm Thúy Chinh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội, khi trao đổi với phóng viên Nhân Dân cuối tuần về vấn đề này.
Bà Phạm Thúy Chinh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội.
Bà Phạm Thúy Chinh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội.

- Là một dự án luật quan trọng, việc sửa đổi Luật số 69/2014/QH13 về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp được kỳ vọng sẽ khơi thông, khai thác hiệu quả nguồn lực vốn nhà nước. Xin bà cho biết về tiến độ, chất lượng công tác xây dựng dự án Luật này tính đến thời điểm này?

- Việc Quốc hội khóa XIII ban hành Luật số 69/2014/QH13 là bước thiết lập chính sách có tính pháp luật cao nhất trong quá trình hoàn thiện cơ chế, chính sách đổi mới công tác quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước. Tuy vậy, trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến động, Luật số 69/2014/QH13 dần bộc lộ một số hạn chế nhất định cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhất là khi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đặt yêu cầu hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển đất nước.

Thực tế, việc xây dựng thể chế quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư và kinh doanh tại doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ quan trọng đối với Chính phủ của nhiều quốc gia bởi đây là khu vực nắm giữ nguồn lực và tài sản rất lớn trong nền kinh tế. Không ngoại lệ, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước và hội nhập quốc tế, công tác triển khai xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật ở Việt Nam cũng đang được khẩn trương thực hiện.

Từ năm 2021 đến nay, sau nhiều lần nghiêm túc tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, đại diện khối các doanh nghiệp có vốn nhà nước, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, hồ sơ xây dựng Luật sửa đổi đã được xây dựng theo đúng quy trình, trình tự của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và đã qua nhiều vòng báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Thường trực Chính phủ, Chính phủ. Đến thời điểm này, về cơ bản, hồ sơ xây dựng Luật sửa đổi đã hoàn thiện.

Trong phiên họp toàn thể chiều 14/5/2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thống nhất với Chính phủ trình bổ sung dự án luật sửa đổi Luật số 69/2014/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV (dự kiến diễn ra từ ngày 20/5 tới đây), cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 và thông qua tại Kỳ họp thứ 9.

Nhiều nội dung sửa đổi Luật số 69/2014/QH13 đã được tham vấn tại các hội thảo lấy ý kiến. Ảnh: MINH PHƯƠNG

Nhiều nội dung sửa đổi Luật số 69/2014/QH13 đã được tham vấn tại các hội thảo lấy ý kiến. Ảnh: MINH PHƯƠNG

- Những nội dung quan trọng mà cơ quan soạn thảo hướng tới khi thực hiện thể chế hóa chủ trương của Đảng, hoàn thiện khung pháp lý của Nhà nước trong quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại khu vực doanh nghiệp là gì, thưa bà?

- Để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, khắc phục những hạn chế, tồn tại trong Luật số 69/2014/QH13, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam, cơ quan soạn thảo hướng tới việc xem xét sửa đổi một cách căn bản, toàn diện theo hướng ban hành Luật mới thay thế Luật số 69/2014/QH13. Dự án Luật tập trung vào sửa đổi các nhóm chính sách lớn:

Thứ nhất, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ được xây dựng trên nguyên tắc “lợi ích thì hài hòa, rủi ro thì chia sẻ”, bảo toàn, hiệu quả, công bằng, thị trường, linh hoạt và công khai, minh bạch; vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp đi đôi với quyền kiểm soát, được quản lý, sử dụng kịp thời, linh hoạt nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có vốn nhà nước để làm tốt vai trò dẫn dắt mở đường cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác phát triển; đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp theo hướng thống nhất một chính sách về đầu tư vốn, tiên tiến, phù hợp thông lệ, chuẩn mực quốc tế.

Thứ hai, đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp hướng tới mục tiêu nhà nước quản lý theo dòng vốn đầu tư, vốn nhà nước sau khi đã đầu tư vào doanh nghiệp để thực hiện nghĩa vụ góp vốn chủ sở hữu nhà nước được xác định là tài sản/vốn của pháp nhân doanh nghiệp theo quy định của Bộ luật Dân sự, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, tự chủ trong hoạt động của pháp nhân là doanh nghiệp.

Thứ ba, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp với mục tiêu phân cấp để bảo đảm chủ động và xác định rõ thẩm quyền trình tự, thủ tục, rõ trách nhiệm của doanh nghiệp và các cơ quan trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.

Thứ tư, sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp trên tinh thần luật hóa quy định tại các Nghị định đã được thực hiện ổn định, phù hợp trong thời gian qua về cổ phần hóa doanh nghiệp, chuyển nhượng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, giải thể, phá sản doanh nghiệp.

Thứ năm, cơ quan, người đại diện chủ sở hữu vốn nhằm tách bạch rõ nội dung chức năng quản lý, đầu tư vốn của đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản trị, điều hành của doanh nghiệp nhà nước; quy định rõ quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện, người đại diện chủ sở hữu vốn.

Thứ sáu, quản trị doanh nghiệp, quy định quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp nhưng không quy định các nội dung mang tính quản trị hoạt động, điều hành của doanh nghiệp nhằm bảo đảm tính tự chủ trong hoạt động sản xuất, đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp xây dựng hệ thống kiểm soát và kiểm toán nội bộ, cơ chế quản trị hiệu quả, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình trên cơ sở tham khảo các thông lệ quản trị chuyên nghiệp, hiệu quả.

- Dưới góc độ một nhà lập pháp, đồng thời cũng là người trực tiếp tham gia xây dựng dự án Luật này, theo bà, việc sửa đổi có bảo đảm cân đối cùng một lúc các mục tiêu đặt ra đối với nguồn lực vốn nhà nước?

- Một trong những đổi mới quan trọng của dự án luật trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển đổi số quốc gia chính là việc hình thành các quy định về phương pháp phân tích, đánh giá định lượng hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo lĩnh vực, ngành nghề, mục tiêu, nhiệm vụ, quy mô tập trung vốn để ra các quyết định liên quan đến đầu tư, sử dụng, quản lý vốn nhà nước, nhất là trong đầu tư mới, đầu tư bổ sung vốn điều lệ hay đầu tư mua lại cổ phần, vốn góp và yêu cầu đánh giá tác động cụ thể đến quy mô, phạm vi, cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước, thành phần kinh tế nhà nước trong tổng thể cơ cấu nền kinh tế, cạnh tranh chống độc quyền và thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường.

Việc sửa đổi toàn diện Luật số 69/2014/QH13 sẽ có tác động tích cực đến đại diện chủ sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, các chủ thể quản trị doanh nghiệp nhà nước và các bên có nghĩa vụ, lợi ích liên quan.

Các quy định mới trong Luật sửa đổi có thể làm thay đổi mối quan hệ đa chiều giữa doanh nghiệp có vốn nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực ở trung ương và địa phương cũng như mối quan hệ giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước với các các cơ quan, tổ chức có liên quan.

Thật sự, đây là dự án Luật rất khó, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Chúng tôi kỳ vọng, việc sửa đổi Luật số 69/2014/QH13 có thể cân đối giữa mục tiêu sử dụng hiệu quả nguồn lực vốn và mục tiêu bảo đảm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, đáp ứng được các định hướng, chủ trương mới của Đảng đưa ra tại Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.

Đặc biệt là hướng tới và đáp ứng mục tiêu tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, đồng thời khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực vốn nhà nước, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo tinh thần nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

- Trân trọng cảm ơn bà!

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.